SGK cần tôn trọng bản quyền
SGK là sản phẩm & hàng hóa nhưng cũng là mẫu sản phẩm văn hóa truyền thống đặc trưng, yên cầu sự chuẩn mực, đúng chuẩn. Trong lúc cả nước đang thực thi tuyên truyền, lôi kéo người dân tôn trọng quyền tác giả, thực thi Luật Bản quyền, Luật Sở hữu trí tuệ, thì một văn bản cần chuẩn mực như SGK lại “ quên ” triển khai việc này .
Cụ thể, trong sách Tiếng Việt lớp 1 bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” của NXB Giáo dục Việt Nam có rất nhiều truyện, bài tập đọc, kể chuyện được chuyển thể, phóng tác, phái sinh từ các tác phẩm, truyện ngụ ngôn của các tác giả nổi tiếng trong và ngoài nước, nhưng lại không thấy ghi tên tác giả, hay nguồn gốc tác phẩm.
Sách Tiếng Việt lớp 1 bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” của NXB Giáo dục Việt Nam.
Chẳng hạn, “Chó sói và cừu non” thì ai cũng biết đây là một truyện ngụ ngôn nổi tiếng của La Fontaine, nhưng tại trang 63, tiếng Việt tập 1, bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống”, khi các tác giả dựa vào nội dung câu chuyện để chuyển thể sang tranh vẽ và yêu cầu học sinh kể lại câu chuyện, lại không hề ghi hay chú thích tên tác giả.
Tương tự, những truyện “ Con quạ mưu trí ” ( trang 43 ), “ Cô chủ không biết quý tình bạn ” ( trang 53 ), “ Hai người bạn và con gấu ” … cũng như vậy .Nhiều tác phẩm sử dụng trong SGK Tiếng Việt lớp 1 bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” của NXB Giáo dục Việt Nam không ghi nguồn tác phẩm chuyển thể, phóng tác theo.
Hay truyện ngụ ngôn nổi tiếng của Aesop – “Rùa và Thỏ”, được các tác giả phóng tác lấy tiêu đề là “Thỏ và rùa” (trang 83) và cũng không ghi tác giả, hay nguồn gốc tác phẩm mà mình đã phóng tác theo.
Trẻ con lớp 1 như tờ giấy trắng. Mỗi trang sách sẽ theo trẻ trong suốt cuộc đời. Đáng lẽ trẻ cần được dạy về sự tôn trọng tri thức của người khác, tôn trọng bản quyền, thì các tác giả viết SGK lại “quên” thực hiện tôn trọng quyền tác giả.
Việc này có thể khiến dư luận hiểu lầm là các câu chuyện nổi tiếng kể trên là của nhóm tác giả biên soạn SGK. Nó chẳng khác nào hành động biến tác phẩm của người khác thành của mình và việc này “lọt” qua nhiều khâu từ biên tập, thẩm định, đến phê duyệt.
Nhiều “sạn”, kiến thức nặng, khó với học sinh lớp 1
Trong 5 bộ SGK thì Tiếng Việt lớp 1 bộ “ Kết nối tri thức với đời sống ” đang nhận được nhiều quan điểm của giáo viên về việc sách có nhiều kiến thức và kỹ năng khó, nặng, quá tải .Trong một bài học của sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” yêu cầu học sinh học đến 4 vần. Theo một giáo viên dạy tiểu học ở TP. Hải Phòng, những bài học kinh nghiệm chữ và vần của sách có vận tốc “ nhanh như điện ”. Nhiều bài học kinh nghiệm, học viên phải học từ 3 đến 4 vần, trong khi sách cũ chỉ dạy mỗi bài 2 vần .Trong những bài học kinh nghiệm chữ, vần, học viên cũng phải làm quá nhiều việc, phải nói những câu dài. Vì những bài học kinh nghiệm được sắp xếp như vậy nên giáo viên khó khăn vất vả hơn trong việc dạy, học viên cũng áp lực đè nén trong việc học .Trẻ lớp 1 cần thời hạn thích nghi, làm quen sau khi chuyên cấp, có thời hạn nghỉ ngơi. Việc phải học liên tục với khối lượng kỹ năng và kiến thức như vậy khi mới vào lớp 1 hoàn toàn có thể khiến trẻ sợ học, cha mẹ cũng gặp áp lực đè nén trong việc kèm con học ở nhà .Ngoài ra, trong sách Tiếng Việt 1 bộ “ liên kết tri thức với đời sống ” cũng có nhiều bài tập rất nặng, khó với học viên lớp 1 .Trẻ lớp 1 được yêu cầu làm bài tập ghép từ để tạo nên tên các con vật.Chẳng hạn bài tập 1, trang 174 ( tập 1 ) nhu yếu trẻ vừa ghép chữ để tìm tên con vật, vừa thêm dấu thanh. Xem hình thì đến người lớn biết hết tên con vật rồi còn khó tìm được đủ tên 11 con vật khi ghép những ô chữ, trẻ con lại còn phải thêm dấu thanh trên những tên đó, trong khi chưa thể đọc viết thành thạo. Bài tập này được nhiều giáo viên nhìn nhận là không tương thích, quá sức với học viên lớp 1 .Trong sách này lại có rất nhiều bài tập ô chữ kiểu này. Trẻ em lớp 1 nghịch ngợm, hiếu động đâu chịu ngồi im đọc cả trang chữ sum sê của 1 bài tập, có câu lệnh dài, rồi phải đọc để đoán ra từng từ, kiên trì điền từng chữ vào xum xê những ô, không được nhầm lẫn .
Nhiều bài học có chi tiết phi lý
Ngoài ra, trong cuốn SGK của NXB Giáo dục Việt Nam còn có nhiều chi tiết được cho là phi lý khác.
Bài trang 145 tiếng Việt lớp 1 bộ “ Kết nối tri thức với đời sống ” viết : ” Ông mặt trời nhô lên từ biển. Mặt biển nhuộm một màu xanh lè “. Ông mặt trời nhô lên từ biển thì biển phải màu hồng chứ sao lại xanh tươi ?Bài đọc trang 59 viết “ chia dĩa ” nhưng trên bàn thấy mấy cái đĩa rất to, dĩa thì phải căng mắt nhìn mới thấy. Giáo viên, cha mẹ người miền Nam cứ tưởng nói về những cái đĩa, vì tiếng Nam Bộ thì dĩa có nghĩa là đĩa .
Source: https://futurelink.edu.vn
Category: Tin tổng hợp