Ngày 27/5/2022, thực hiện chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp từ năm 2021 đến năm 2030, Hội nghị công tác vùng Đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc và miền Trung năm 2045 đã được tổ chức tại Trường Trung cấp Giáo dục nghề nghiệp và Du lịch Hải Phòng. Đại diện hầu hết các cơ sở giáo dục nghề nghiệp khu vực phía Bắc đã tham dự buổi gặp mặt.
Ông Fan Wuguoping, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp và Đào tạo, phát biểu tại buổi khai mạc cuộc họp rằng để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp, ở tầm vĩ mô, cần phải có những hành động đột phá, dám nghĩ dám làm, và ở cấp cơ sở, các trường học và cơ sở giáo dục cần cập nhật Suy nghĩ và chuẩn bị cho sự thay đổi.
Cũng tại buổi làm việc này, đại diện các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phía Bắc đã đưa ra nhiều ý kiến, đề xuất và các vấn đề chính sách với Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp. Vì vậy, hội nghị đã tiếp thu và nhân rộng nhiều ý kiến hay, kinh nghiệm thực tiễn.
Bà Khương Thị Nhạn, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính, Tổng cục Giáo dục và Đào tạo báo cáo tình hình thực hiện Chiến lược phát triển dạy nghề giai đoạn 2021-2030 với các đại biểu và phát biểu chỉ đạo. Tầm nhìn đến năm 2045. Theo Quyết định số 2239 / QĐ-TTg được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 30 tháng 12 năm 2021, Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo đó, mục tiêu chung của chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật là: Phát triển nhanh giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường lao động, của người dân và yêu cầu ngày càng lớn về số lượng và cơ cấu. trong từng thời kỳ. Đến năm 2045, giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu nhân tài kỹ năng cao của các nước phát triển; trở thành nước đang phát triển hàng đầu về giáo dục nghề nghiệp trong khu vực ASEAN, bắt kịp trình độ tiên tiến của thế giới, có năng lực cạnh tranh vượt trội trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề đào tạo và nghề nghiệp.
Trong thực tế thực hiện chiến lược, mục tiêu của hệ thống giáo dục nghề nghiệp đến năm 2025 là: Bảo đảm quy mô, cơ cấu ngành, nghề đào tạo phục vụ sự nghiệp phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; chất lượng đào tạo ở một số trường gần đạt trình độ của các nước ASEAN 4 và một số nghề gần với khu vực và trình độ của các nước phát triển trên thế giới, giúp nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ lên 30%.
Một số chỉ số chính là:
– Thu hút 40 – 45% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông vào học nghề nghiệp, học sinh, sinh viên nữ hoàn thành trên 30% tổng số chỉ tiêu tuyển mới.
– Đào tạo lại và đào tạo thường xuyên khoảng 25% lực lượng lao động.
– Tỷ lệ lao động là người dân tộc thiểu số được đào tạo nghề là 45%.
– 35% lao động là người khuyết tật được học nghề phù hợp.
– 80% kỹ năng CNTT của nhân viên.
– Có ít nhất 30% cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 50% chương trình đào tạo ngành, nghề trọng điểm đạt tiêu chuẩn chứng nhận chất lượng.
– Phấn đấu 100% giáo viên đạt chuẩn, khoảng 80% cán bộ quản lý được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý – điều hành hiện đại.
——Đẩy mạnh xây dựng và cập nhật chuẩn đầu ra cho khoảng 80% ngành, nghề đào tạo phù hợp với hệ thống trình độ quốc gia.
– Có khoảng 70 trường chất lượng cao, trong đó: 03 trường đảm nhận chức năng trung tâm thực hành dạy nghề chất lượng cao quốc gia, 06 trường đảm nhận chức năng trung tâm thực hành dạy nghề cấp vùng. 40 trường tiệm cận với trình độ của 4 nước ASEAN, 03 trường tiệm cận với trình độ của các nước phát triển trong nhóm G20; có khoảng 150 ngành, nghề trọng điểm, trong đó có 05-10 ngành có năng lực cạnh tranh vượt trội trong 4 Các nước ASEAN.
Mục tiêu phát triển của giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030 là: Tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân tài có tay nghề cao của các nước đang phát triển công nghiệp hiện đại; tích cực tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế; một số trường tiệm cận với trình độ. của các nước ASEAN 4, và một số giáo dục nghề nghiệp Tiếp cận trình độ của các nước phát triển trong nhóm G20; giúp nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ lên 35-40%.
Một số chỉ số chính ở giai đoạn này là:
– Thu hút 50-55% học sinh tốt nghiệp THCS và THPT vào học nghề; học sinh, sinh viên nữ hoàn thành trên 40% tổng số chỉ tiêu tuyển mới.
– Đào tạo lại và đào tạo thường xuyên cho khoảng 50% lực lượng lao động.
—— Tỷ lệ lao động là người dân tộc thiểu số được đào tạo nghề đạt 50%.
– 40% lao động là người khuyết tật được đào tạo nghề phù hợp.
– 90% lao động có trình độ CNTT.
– Có ít nhất 70% cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 100% các ngành, chương trình dạy nghề trọng điểm đạt tiêu chuẩn chứng nhận chất lượng.
– Phấn đấu 100% giáo viên đạt chuẩn, khoảng 90% cán bộ quản lý được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý – điều hành hiện đại.
——Đẩy mạnh xây dựng và cập nhật chuẩn đầu ra cho khoảng 90% ngành, nghề đào tạo phù hợp với hệ thống trình độ quốc gia.
– Có khoảng 90 trường chất lượng cao, trong đó: 06 trường đảm nhận chức năng trung tâm thực hành dạy nghề chất lượng cao quốc gia, 12 trường đảm nhận chức năng trung tâm thực hành dạy nghề cấp vùng. Chất lượng cao, 60 trường tiệm cận với trình độ của 4 nước ASEAN, 06 trường tiệm cận với trình độ của các nước phát triển trong nhóm G20; có khoảng 200 ngành, công nghiệp trọng điểm, trong đó có 15-20 trường có năng lực cạnh tranh vượt trội. trong khu vực ASEAN và thế giới.
Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, định hướng đến năm 2045 gồm 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, bao gồm: hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục quốc dân. Đẩy mạnh chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị, cập nhật kế hoạch và phương pháp đào tạo; đào tạo giáo viên, thợ thủ công, chuyên gia, người dạy nghề và cán bộ quản lý; giáo dục nghề nghiệp gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và thị trường lao động; nghiên cứu ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ; hướng nghiệp, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; tăng cường huy động đầu tư tài chính cho giáo dục nghề nghiệp và nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính; phổ biến, nâng cao hình ảnh, thương hiệu và giá trị xã hội của giáo dục nghề nghiệp; thúc đẩy tích cực và hiệu quả hội nhập quốc tế của giáo dục nghề nghiệp.
Trong đó, giải pháp thứ hai là “đẩy mạnh chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị, cập nhật chương trình và phương pháp đào tạo”, giải pháp thứ ba là “phát triển đội ngũ giáo viên, nghệ sĩ, cá nhân, chuyên gia, giảng viên dạy nghề và giáo dục nghề nghiệp các nhà quản lý. Đội ”được xác định là giải pháp đột phá.