Giọt nước mắt của “ông tướng biệt động”

Bà Nguyễn Lê Thu An, một cựu chiến sỹ biệt động năm xưa, thẫn thờ nói bên bàn lễ tang .
Vĩnh biệt “ ông tướng biệt động ”

21tfgpAR.jpgPhóng to
Đại tá Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) – Ảnh: Tự Trung

Không ai kinh ngạc nhưng ai cũng đau lòng khi nghe tin “ ông tướng biệt động ” đã ra đi. Bởi đại tá Nguyễn Đức Hùng, ông Tư Chu, không riêng gì là “ tướng biệt động ” bằng những xây đắp thần tình cho những trận đánh lịch sử một thời .

Nước mắt giữa đạn lửa

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói : “ Ấn tượng lớn nhất của tôi về anh Tư Chu là một người chỉ huy bản lĩnh, nhiệt tình và trong chừng mực nào đó có chất lãng mạn cách mạng ”. Chất lãng mạn cách mạng ấy của ông Tư Chu đã bộc lộ ở nhiều nơi, nhiều lúc, như khi ông nghĩ ra cách tiến công vào cư xá Brink khi ngắm vệt nắng chiếu xiên vào hầm xe qua một tấm ảnh chụp. Và chất lãng mạn cách mạng ấy ứa ra thành những giọt nước mắt sau đêm tổng tiến công Mậu Thân 1968 .

Nước mắt người ở lại
Sống như vậy, chiến đấu như vậy, ân tình như vậy nên thời điểm ngày hôm nay, sau mười mấy năm chiến đấu ngoan cường với căn bệnh nan y, ra đi thanh thản ở tuổi 86, mà ông Tư Chu vẫn để lại phía sau bao nhiêu thương tiếc. Đến chia buồn cùng mái ấm gia đình, quản trị nước Trương Tấn Sang ghi vào sổ tang : “ Nhân dân Hồ Chí Minh – Gia Định / TP.Hồ Chí Minh và những chiến sỹ biệt động năm xưa đành phải chia tay, vĩnh biệt anh. Tổ quốc mãi mãi ghi công anh với những chiến công xuất sắc trong những năm tháng chiến đấu đầy gian nan hi sinh giữa lòng TP HCM – Gia Định … Vĩnh biệt anh Tư ”. Hay ông Sáu Phú ( Dương Chí Thành, cựu chiến binh lữ đoàn đặc công – biệt động 367 ) viết vào sổ tang trong ngỡ ngàng : “ Được tin vội chạy đến thì đã đi về cõi vĩnh hằng rồi, Tư Chu ơi. Còn đâu những ngày sống chết cạnh nhau ” .
Và thời điểm ngày hôm nay ông đi, lại có rất nhiều nước mắt .

Hơn mười năm trời xây dựng, đào tạo, rèn luyện, tích lũy, toàn bộ lực lượng biệt động của ông Tư Chu được dốc hết vào trận đêm mồng một tết, bằng ý chí anh dũng vô song của mình lập nên chiến công chấn động. Từng giây phút các chiến sĩ, đồng đội chiến đấu ở đài phát thanh, tòa đại sứ Mỹ, bộ tư lệnh hải quân, bộ tổng tham mưu, dinh tổng thống là từng giây phút ông Tư Chu nghe ruột gan nóng như lửa đốt, tim óc nhói đau vì chưa thấy tin quân tiếp viện.

Giữa trùng trùng mũi súng, vòng vây, ông vẫn lao đi tích lũy tin tức đồng đội. Sau này ông viết trong hồi ký về đêm ấy : “ Đơn vị do tôi chỉ huy đã mất đi hơn 80 % sinh lực chỉ trong một ngày. Từng khuôn mặt thân yêu của anh chị em cứ hiển hiện khiến lòng tôi quặn thắt, lo ngại, day dứt và xót xa. Nước mắt tôi cứ tự nhiên chảy ra không hề kìm lại được. Những cảm xúc này sẽ theo tôi suốt những năm tháng còn lại của cuộc sống ” .
Nước mắt ông còn phải chảy trong bí mật sau đó nữa khi hai con trai của ông mới lên 5, lên 7 tuổi đang ở với bà ngoại bị đối phương bắt để chiêu hàng cha mẹ, bị đưa qua nhiều trại giam, mắc chứng thương hàn không người chăm nom. Được thư ông Tư Ánh ( Trần Bạch Đằng ) khi đó là bí thư Thành ủy TP HCM – Gia Định hứa “ sẽ làm hết năng lực để bảo vệ bảo đảm an toàn cho hai cháu ”, ông lại nuốt nước mắt cùng vợ bước vào cuộc chiến đấu .
Từ điển sống của biệt động TP HCM

Và không chỉ là nước mắt. Trước đó, sau trận đánh vào đại sứ quán Mỹ tháng 3-1965, chiến sĩ biệt động Tư Việt (Lê Văn Việt) bị bắt, bị xử án tử hình. Trong căn cứ ông Tư Chu không chợp mắt. Nửa đêm ông băng rừng tìm đến Bộ tư lệnh quân khu đề đạt nguyện vọng tìm cách cứu Tư Việt, rồi sau đó một kế hoạch trao đổi tù binh đã được hình thành. Không chỉ là nước mắt. Hòa bình rồi, cứ tết đến gia đình ông Tư Chu lại làm mâm cơm giỗ đội biệt động.

Nghỉ hưu, ông Tư Chu cặm cụi đi tìm lại tông tích đồng đội, những chàng trai cô gái khi xưa hồn nhiên gia nhập lực lượng biệt động, hồn nhiên sống chết với nhau bằng những bí danh. Ông so sánh những tài liệu, những hồi ức để ghi chép lại, tái hiện những tích tắc anh hùng bất tử của từng người. Ông gửi đi những bản đề xuất phong tặng, truy tặng thương hiệu anh hùng cho những tổ chiến đấu, cá thể xuất sắc. Được coi là từ điển sống của biệt động TP HCM, ông nhớ tổng thể, chỉ quên bản thân mình. Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân đến với ông những ngày cuối trên giường bệnh, tháng 1-2012. Mọi người ai cũng thốt lên : “ Muộn quá ” ; chỉ riêng ông mỉm cười gật đầu, ra dấu : “ Ấm lòng rồi ” .
Những đồng đội thân thiện với ông ai cũng hiểu cái làm ông ấm lòng và an lòng nhất là hai cuốn sách Biệt động Hồ Chí Minh và Từ một dòng sông đã được hoàn thành xong, công lao và sự hi sinh của lực lượng biệt động đã được vinh danh. “ Lẽ ra anh Tư Chu phải có thêm một Huân chương Lao động ” – bà Thu An nhắc. Nói vậy là vì ông đã viết những trang bản thảo tiên phong sau khi được bác sĩ chẩn đoán căn bệnh ung thư vòm hầu di căn đã tới cuống họng : “ Nay tôi đã gần 70 tuổi và căn bệnh hiểm nghèo thu hẹp sự hoạt động giải trí, nhắc tôi về quỹ thời hạn còn lại không bao nhiêu nữa. Vậy thì có lẽ rằng hay nhất là tôi nên tận dụng số thời hạn này – tuy rất ít – sao cho có ích ” .
Hai cuốn sách được ông thiết kế xây dựng đề cương, bố cục tổng quan cẩn trọng, sao lục tài liệu, rồi viết, ghi chú cẩn trọng từng trang, miệt mài cho đến tận lúc nét chữ chân phương thanh mảnh bị những cơn đau khiến cho méo mó, nguệch ngoạc. Đọc những dòng gan ruột trong sách, nhìn những tập bản thảo và cả ngữ cảnh phim được ông viết trên nhiều loại giấy, bằng nhiều dạng nét chữ tùy theo thực trạng, tùy theo sức khỏe thể chất mà khó cầm lòng. Các nhà chỉ huy lão thành như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông Võ Trần Chí, Trần Bạch Đằng khi đọc sách đều ghi nhận đây là tài liệu rất giá trị, rất quý giá cho lịch sử dân tộc, còn ông thì ghi lời đề từ : Bạch đầu quân sĩ tại / Vãng vãng thuyết Nguyên Phong ( Người lính già đầu bạc / Kể mãi chuyện Nguyên Phong – Trần Nhân Tông ) .