Phục hồi giáo dục sau Covid yêu cầu một kế hoạch linh hoạt

(KTSG) – Việc khôi phục nguyên trạng nền giáo dục trước đại dịch Covid-19 là rất cấp thiết. Vì nếu chần chừ, đến muộn có thể ảnh hưởng đến kết quả học tập, sức khỏe tinh thần và cả tương lai của bạn khi ra trường. Rộng hơn, nó ảnh hưởng đến gia đình, xã hội và nền kinh tế về lâu dài.

Trong khi các nhà quản lý giáo dục nôn nóng với nhu cầu học lại thì áp lực phải nhanh chóng nối lại giảng dạy sao cho nhanh chóng, hiệu quả lại đổ lên đầu các thầy cô giáo, những người đang cùng học sinh, sinh viên trải qua thời kỳ khó khăn. Về thể chất và tinh thần. Cần phải phân tích, nhìn nhận và phát triển các giải pháp phục hồi bền vững hơn cho tình trạng này.

Thứ nhất, tác động của dịch đối với việc học tập thay đổi theo quốc gia và thành phố; sự khác biệt lớn hơn về khả năng duy trì và bổ sung kiến ​​thức học tập của các quần thể trong thời gian xảy ra dịch; phức tạp do cường độ và làn sóng dịch bệnh không đồng đều, khiến cho các nỗ lực phục hồi tạm thời hầu như không có. không thể là vô ích.

Các nhà nghiên cứu đã tạo ra một bản đồ giáo dục giữa các quốc gia và cộng đồng trong các thời kỳ khác nhau khi giáo dục bị ngừng hoặc bị mất do Covid-19 (*). Kết quả là, sinh viên trên toàn cầu mất trung bình khoảng tám tháng thời gian học trong 23 tháng đầu tiên của đại dịch Covid-19, với nhiều sự khác biệt: ở Bắc Mỹ và châu Âu là hơn bốn tháng, trong khi ở Bắc Mỹ và châu Âu. mất hơn bốn tháng. Mất hơn bốn tháng ở châu Âu và hơn một năm ở Nam Á, Nam Mỹ và Caribe; ở Nhật Bản và Úc chỉ mất hơn hai tháng, trong khi Philippines và Indonesia có thể đã bị đình trệ trong hơn 12 tháng.

Trên thực tế, ngay cả trong những cộng đồng nhỏ nhất, thời gian học sinh nghỉ học cũng khác nhau, cùng với những điều kiện học tập rất khác nhau … dẫn đến những hậu quả khác nhau. . Sự chênh lệch ngày càng lớn về cơ hội và thành tích giữa các trẻ em là một thực tế mà các nhà giáo dục phải thận trọng khi xây dựng các chương trình phục hồi chức năng giáo dục để tránh áp đặt kế hoạch cho tất cả mọi người, kể cả thành thị và nông thôn. Tương tự như vậy, các cải tiến theo kế hoạch chỉ dành cho các trường phù hợp, không phải tất cả các trường.

Các giải pháp bao gồm đào tạo từ xa rất đa dạng. Tuy nhiên, ở một số nơi, sinh viên hỗ trợ đào tạo từ xa thông qua truy cập internet, thiết bị, hệ thống quản lý học tập, phần mềm thích ứng, hội nghị truyền hình trực tiếp với giáo viên và bạn bè, và thậm chí thuê các chuyên gia. Nhiều sinh viên ở những nơi khác chỉ có quyền truy cập vào đài phát thanh hoặc chương trình truyền hình, tài liệu bản cứng và tin nhắn văn bản. Thậm chí nhiều sinh viên có thể không có quyền truy cập vào bất kỳ lựa chọn học tập nào!

Nhu cầu tiếp tục giáo dục và khôi phục trường học là quan trọng vì tác động của đại dịch vượt quá khả năng học tập. Phần lớn cuộc trò chuyện xung quanh hệ thống trường học tập trung vào thành tích giáo dục, nhưng các trường học cung cấp nhiều thứ hơn là hướng dẫn học tập.

Các đóng góp của hệ thống trường học có thể bao gồm tương tác xã hội; tạo cơ hội cho học sinh hình thành mối quan hệ với những người lớn quan tâm; cơ sở vật chất cho các hoạt động ngoại khóa, từ nghệ thuật đến thể thao; các điểm tiếp cận cho các dịch vụ sức khỏe thể chất và tinh thần; bao gồm cả việc đảm bảo rằng các bữa ăn cân bằng được ăn vào một cách thường xuyên. Năm học cũng cho phép học sinh theo dõi sự tiến bộ của mình và kỷ niệm các mốc quan trọng. Nhiều người trong số các quyền này bị từ chối đối với học sinh khi trường học đóng cửa trong thời gian dài hoặc chuyển sang học kết hợp.

Cuối cùng, trình độ học vấn thấp – được định lượng ở đây bằng độ dài của sự chậm trễ giáo dục – dẫn đến khả năng kiếm tiền trong tương lai của học sinh thấp hơn và năng suất kinh tế của đất nước thấp hơn. Nghiên cứu cho thấy trình độ học vấn cao hơn làm tăng năng suất lao động và nâng cao khả năng đổi mới của nền kinh tế.

Trừ khi tác động của đại dịch đối với việc học tập của sinh viên được giảm thiểu và sinh viên được hỗ trợ để bù đắp cho việc học bị bỏ lỡ, nền kinh tế toàn cầu có khả năng tăng trưởng GDP thấp hơn trong dài hạn, với Viện McKinsey dự đoán rằng thiệt hại hàng năm toàn cầu có thể lên tới 1,6 USD nghìn tỷ, hay GDP toàn cầu là 0,9%.

Do đó, giáo dục sau COVID-19 sẽ đòi hỏi nhiều hơn các kế hoạch và chương trình hàng năm do các quốc gia và tổ chức vạch ra. Có bốn giải pháp khả thi cho vấn đề này.

Đầu tiên là xây dựng khả năng phục hồi bằng cách mở cửa lại các trường học một cách an toàn trong bối cảnh một đại dịch bất tận.

Thứ hai, nên đăng ký học lại dựa trên trình độ hiện tại của học sinh để tránh kéo theo trình độ học vấn phổ thông.

Thứ ba, tìm phương án phục hồi (recovery) trên cơ sở lấy lại những mặt bằng đã mất để tạo đà phát triển cho những năm tiếp theo.

Thứ tư – Điều rất quan trọng là phải phát triển các sáng kiến ​​(reimaginings) để giáo dục không quá bị động do đại dịch hiện nay, tập trung vào vai trò của công nghệ giáo dục, đặc biệt là trong việc vượt qua những thách thức về vốn con người, thúc đẩy việc áp dụng kỹ thuật số trong thời gian bình thường và nói chung đại dịch.

———

(*) https://ift.tt/aZJkrp5

Đề thi học kì 1 môn Sinh học tỉnh Vĩnh Phúc lần 10 năm 2016

Danh sách bài viết

Năm học 2016 – 2017 Đề thi học kì 1 môn Sinh học lớp 10 tỉnh Vĩnh Phúc. Hình thức kiểm tra và tự luận. Thời gian 45 phút.

Đề thi học kì 1 môn Sinh học lớp 10 tỉnh Vĩnh Phúc năm học 2016 – 2017.

1. Phần thi (2,0 điểm)

Câu 1: Nhóm sinh vật nào sau đây thuộc giới Động vật nguyên sinh?

A. Nấm rơm, nấm mốc, động vật nguyên sinh. B. Vi khuẩn, nấm men, động vật nguyên sinh.

C. Tảo, nấm mốc, động vật nguyên sinh. D. Tảo, nấm men, hợp âm.

Câu 2: Nhóm nguyên tố hóa học gồm các nguyên tố vi lượng là

A. F, Cu, Fe, Mn, Zn. B.C, H, Fe, Zn, Mo.

C. canxi, photpho, kẽm, molipđen, đồng. D. Sắt, mangan, molipđen, canxi, kẽm.

Câu 3: Vào mùa lạnh và hanh khô, người ta thường bôi kem (sáp) để chống nứt da, vì

A: Sáp giúp lưu trữ năng lượng. B. Sáp ngăn không cho hơi ẩm bay hơi qua da.

C. Sáp có thể bổ sung nhiều vitamin cho da. D. Sáp giúp da thoát hơi nước nhanh chóng.

Vấn đề 4: Ăn nhiều nguồn thực phẩm chứa protein khác nhau để đạt được điều đó

A. Thu năng lượng. B. Tăng khả năng tiêu hóa thức ăn.

C. Kích thích cảm giác thèm ăn. D. Cung cấp đầy đủ thành phần axit amin.

Câu 5: Một gen có 2346 liên kết hiđrô, hiệu số giữa một loại nuclêôtit loại A với một loại nuclêôtit khác trong gen là 20% tổng số nuclêôtit của gen. Tổng số nuclêôtit trong gen là

A. 1800. B. 1200. C. 2400. D. 2040.

Câu 6: Chiều dài của một gen là 5100A, A / G = 2/3. Sợi thứ nhất của gen có 250 nuclêôtit loại A và sợi thứ hai có 400 nuclêôtit loại G.

Phát biểu nào sau đây là đúng về gen trên?

(1) Khối lượng phân tử của gen là 9 × 105 đvC.

(2) Số liên kết phôtpholipit trong gen là 2998.

(3) Số liên kết hiđrô của gen là 3900 liên kết.

(4) Số lượng từng loại nuclêôtit trên 1 chuỗi của gen là: A = 250; T = 350; G = 500; X = 400.

A. 1. B. 3. C. 2. D. 4.

Câu 7: Nếu cắt bỏ thành tế bào vi khuẩn có hình dạng khác nhau, rồi cho các tế bào này vào dung dịch có nồng độ chất tan bằng nồng độ chất tan nội bào thì tất cả các tế bào đều có hình cầu. Thí nghiệm này chứng minh rằng thành tế bào hoạt động

A. Sự trao đổi chất giữa tế bào và môi trường. B. Ngăn cách ngoại bào và ngăn ngoại bào.

C. Giữ ổn định hình dạng tế bào. D. Bảo vệ tế bào.

Câu 8: Nhân sinh dưỡng của loài A được cấy vào trứng, nhân của loài B bị mất. Con cái mang đặc điểm của loài ếch có những đặc điểm sau.

A. Loài B được nuôi cấy bằng tế bào của loài B.

B. Loài A được tạo ra từ nhân với vật chất di truyền của loài A.

C. Chủ yếu do tế bào loại B có chứa vật chất di truyền loại B trong tế bào chất tạo ra.

D. Loài A hoặc B, tùy theo loài nào có thành phần khối lượng nhiều hơn.

2. Tuyên bố từ chối trách nhiệm (8,0 điểm)

Câu 9 (2,0 điểm)

Tính chất nào của nước là quan trọng nhất? Nêu vai trò của nước đối với tế bào và cơ thể.

Câu 10 (2,0 điểm)

Hợp chất hữu cơ tinh bột, chất béo, protein và ADN được cấu tạo từ những đơn vị nào? Kể tên các liên kết hóa học giữa các đơn vị này.

Câu 11 (2,0 điểm)

Một gen dài 4080A và có 3120 liên kết hiđrô, trên một sợi của gen có A1 = 270,% G1 = 18%.

a) Đếm số lượng nuclêôtit loại ađênin và guanin trong gen A.

b) Đếm số nuclêôtit loại ađênin và guanin trên sợi thứ hai của gen.

Câu 12 (2,0 điểm)

So sánh sự khác nhau về cấu tạo và chức năng giữa ti thể và lục lạp.

Đáp án đề thi học kì 1 lớp 10 tỉnh Vĩnh Phúc năm học 2016 – 2017

1. Phần trắc nghiệm (2,0 điểm): 0,25đ / câu hỏi

kết án

Câu hỏi 1

chương 2

câu thứ ba

phần 4

Câu hỏi 5

Phần 6

Phần 7

Mục 8

trả lời

Một loại

loại bỏ

giản dị

giản dị

giản dị

loại bỏ

2. Phần thảo luận

2. Phần luận văn

Câu 9: Tính chất nào của nước là quan trọng nhất? Nêu vai trò của nước đối với tế bào và cơ thể.

các nội dung

Lượt xem

– Tính chất quan trọng nhất của nước là tính phân cực.

Vai trò của nước:

+ Nước là chất xây dựng cơ bản của tế bào và sinh vật, không có nước cơ thể con người không thể tồn tại được ………………

+ Nước là dung môi hòa tan các chất và là môi trường cho các phản ứng sinh hóa trong tế bào ………… ..

Nước có vai trò điều hòa tế bào và nhiệt độ cơ thể.

0,5

0,5

0,5

0,5

Câu 10: Nêu các đơn phân của hợp chất hữu cơ như tinh bột, chất béo, prôtêin và ADN? Cho biết tên của kết nối giữa các đơn vị này.

các nội dung

Lượt xem

– Tinh bột được cấu tạo từ các đơn chất glucozơ, chất béo được cấu tạo bởi glixerol và các axit béo ………… ..

Protein được cấu tạo từ các axit amin và DNA được cấu tạo bởi các nucleotit.

Glucose liên kết với nhau bằng liên kết alpha-glycosidic để tạo thành tinh bột, còn glycerol thì liên kết với axit béo bằng liên kết este để tạo thành chất béo.

Các axit amin được liên kết với nhau bằng liên kết peptit để tạo thành protein, và các nucleotit được liên kết với nhau bằng liên kết photphodiester để tạo thành ADN.

0,5

0,5

0,5

0,5

Lưu ý: Học sinh có thể vẽ trên bảng. Nếu bạn viết đủ thông tin, bạn vẫn sẽ đạt điểm cao nhất.

Câu 11: Một gen dài 4080A, có 3120 liên kết hiđrô, trên một chuỗi của gen có A1 = 270,% G1 = 18%.

Một loại. Đếm số nuclêôtit loại ađênin và guanin trong gen A.

b. Đếm số nucleotit loại adenin và guanin trên sợi gen 2.

các nội dung

Lượt xem

Một loại. Ta có N = 2L / 3,4 = 2400 = 2A + 2G (1) …………………… ..

H = 2A + 3G = 3120 (2). Từ (1), (2) => A = T = 480; G = X = 720 …… ..

b. Ta có A2 = A-A1 = 480-270 = 210 ……………………

G1 = 18% .1200 = 216; G2 = G-G1 = 720-216 = 504 ……………………

0,5

0,5

0,5

0,5

Câu 12: So sánh cấu tạo và chức năng của ti thể và lục lạp.

các nội dung

Lượt xem

– Màng trong gấp khúc tạo thành mào, ngược lại ở lục lạp màng trong nhẵn …………………….

– Trên màng trong ti thể có hệ thống enzim có chức năng trong chuỗi hô hấp tổng hợp ATP cho tế bào. Trong khi đó, trên màng thylakoid có hệ thống sắc tố và enzym hoạt động trong pha sáng của quá trình quang hợp. ………………

Ti thể, được tìm thấy trong hầu hết các tế bào nhân thực, lấy chất dinh dưỡng ở dạng dị dưỡng. Trong khi lục lạp chỉ có ở tế bào thực vật thì dinh dưỡng ở dạng tự dưỡng.

Ti thể là bào quan nơi diễn ra quá trình hô hấp tế bào. Lục lạp là bào quan thực hiện quá trình quang hợp.

0,5

0,5

0,5

0,5

Người có trình độ thấp, nhờ có bằng Tiến sĩ, có thể được bổ nhiệm lãnh đạo rấ t nguy hiểm.

Gần đây, giảng viên Đại học Northwestern và nghiên cứu sinh Đặng Hoàng Anh luận án tiến sĩ “Nghiên cứu kế hoạch phát triển môn cầu lông công chức tại thành phố Shanluo” đã làm dấy lên những cuộc thảo luận sôi nổi. Luận án tiến sĩ này đã được bảo vệ tại Học viện Khoa học Thể thao (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).

hình minh họa. Nguồn: Korea Telecom

Mặc dù đã qua vòng bảo vệ thành công nhưng luận án vẫn gây ra nhiều tranh cãi, nhiều ý kiến ​​cho rằng đề tài nghiên cứu quá nhỏ, không phù hợp để làm luận án tiến sĩ. Đánh giá về những tranh cãi xung quanh luận án tiến sĩ của giảng viên Đặng Hoàng Anh, có nhiều ý kiến ​​băn khoăn, lo lắng trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay về chất lượng chuyên môn của luận án tiến sĩ và vấn đề đào tạo nghiên cứu sinh trở thành nghiên cứu sinh.

Trả lời phỏng vấn của VOV.VN, PGS Pei Thị An, nguyên đại biểu Quốc hội khóa VIII cho biết, đề tài luận án tiến sĩ thường có hai lĩnh vực, gồm nghiên cứu lý thuyết đơn giản, phải mới và nâng cao. và nhắm mục tiêu các trường cụ thể. Ví dụ, nghiên cứu vật lý phải có định hướng chuyên sâu đến các chuyên ngành phụ khác trong lĩnh vực vật lý. Nếu chủ đề là nghiên cứu ứng dụng thực tế thì nên mới…

“Khi chọn đề tài cho luận án tiến sĩ phải ở mức độ phù hợp, không thể chọn đề tài quá đơn giản, thô thiển. Đối với một đề tài như luận án” Tiến sĩ cầu lông “thì phải hỏi ai. hỏi trước khi hỏi về trách nhiệm của nghiên cứu sinh Ông là người phản biện và hướng dẫn đề tài này, đề tài đúng là chưa đủ, làm luận án tiến sĩ thì không có giá trị. Để làm được điều đó? Một đề tài như thế này không chỉ là lỗi của nghiên cứu sinh mà cần phải được nhìn nhận. Việc chọn đề tài là trách nhiệm của gia sư nhà Thanh. “, Phó giáo sư Pei Shian nói.

Phó giáo sư Pei Shian cho rằng luận án “Tiến sĩ cầu lông” không phải là luận án tiến sĩ duy nhất gây tranh cãi trong dư luận. Một trong những nguyên nhân khiến việc đào tạo tiến sĩ bị hạn chế hiện nay là bệnh thành tích đã lan rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục, từ phổ thông đến đại học và xa hơn nữa.

Bên cạnh những nghiên cứu sinh thật, thi thật, nhà nghiên cứu thật, chúng ta phải thừa nhận rằng, có những người dù không học thật nhưng vẫn muốn lấy bằng giỏi. Bằng cấp được theo đuổi để có được vị trí cao hơn trong các cơ quan và tổ chức làm việc.

“Vì vậy, để giải quyết dứt điểm tình trạng sát thực thi bằng tiến sĩ, cần phải nhìn nhận lại quy trình bổ nhiệm cán bộ hiện nay ở các cơ quan, tổ chức. Việc bổ nhiệm cán bộ phải đánh giá đúng năng lực thực tế, bằng cấp thật thì chất lượng. quan trọng nhưng nếu không làm thì thực sự rất nguy hiểm và để lại nhiều hệ lụy cho xã hội ”, PGS.TS Bùi Thị An nói.

Đối với các trường cao đẳng và đại học đảm nhận nhiệm vụ đào tạo bác sĩ, Phó giáo sư Pei Shian cho rằng chất lượng nên được ưu tiên chứ không phải số lượng. Ngoài ra, các cơ sở này cũng cần phải chịu trách nhiệm khi báo này nhận được nhiều phản hồi của dư luận.

Theo Đề án 89 “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý trong các trường cao đẳng, đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030”, các trường cao đẳng, đại học sẽ được tự chủ lựa chọn, phân công. Giảng viên hướng dẫn, quản lý kinh phí, theo dõi quá trình đào tạo đến khi sử dụng sau đào tạo và bồi hoàn kinh phí đào tạo (nếu có).

Năm 2021, 164 cơ sở trong cả nước đăng ký, cử 1.277 giảng viên đi đào tạo trình độ tiến sĩ theo kinh phí đào tạo trong nước, đào tạo ở nước ngoài và liên kết đào tạo. Vào năm 2022, 155 cơ sở đã đăng ký sẽ gửi 1.308 giảng viên.

Theo ước tính của Bộ GD & ĐT, để đạt được mục tiêu của Đề án 89, giáo dục đại học Việt Nam cần đào tạo khoảng 7.300 giảng viên có trình độ tiến sĩ trong 10 năm tới.

“Theo tôi, những cơ sở đào tạo ra các luận án Tiến sĩ, Tiến sĩ” chui “nên chịu trách nhiệm cuối cùng. Không thể đổ xô số lượng mỗi năm một cách lãng phí. Đặc biệt là những người có học vị Tiến sĩ, nếu được bổ nhiệm vào các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước sẽ rất nguy hại cho xã hội ”, PGS.TS Pei Thị An nhấn mạnh.

Từng nhiều năm gắn bó với ngành giáo dục và đọc đề tài nghiên cứu “Tiến sĩ cầu lông”, GS Fan Dadong nói rằng ông “vừa buồn cười vừa tức giận không hiểu vì sao những chủ đề này lại được đưa ra thảo luận, đánh giá lại thông qua.

GS Phạm Tất Dong cho rằng, nguyên nhân có thể do nghiên cứu sinh hiểu chưa đúng khái niệm nghiên cứu khoa học, hoặc trình độ của cả nghiên cứu sinh và người hướng dẫn đều có vấn đề, không phân biệt được. Đề tài nghiên cứu là gì và báo cáo thường niên là gì. Nguyên nhân cuối cùng có thể là do thói quen thi hành công vụ của một số cán bộ, công chức, viên chức hiện nay.

GS Phạm Tất Dong đặt câu hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu chủ nhân của luận án tiến sĩ nói trên đứng ra làm chủ. Giấy thông hành đào tạo tiến sĩ có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

Một số chuyên gia cũng cho rằng, đào tạo nghiên cứu sinh trở thành tiến sĩ là tốt nhưng họ phải là tiến sĩ thực thụ, người học thật, dạy kèm cũng phải thật. Nếu không giải quyết được vấn nạn “giáo sư giả”, “tiến sĩ giả” thì nền học thuật của Việt Nam sẽ không bao giờ phát triển được.

Chương trình mới thực hiện đầy đủ giáo dục lịch sử và lòng yêu nước

Nguyễn Minh Thuyết – Tổng chủ biên Đề án GDPT 2018 (Ảnh: VGP)

Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết cho biết, việc thiết kế Đề án được thực hiện rất bài bản, cẩn trọng, phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng, các văn bản pháp luật của quốc gia và yêu cầu thực tế, có tham khảo đầy đủ kinh nghiệm quốc tế.

Lịch sử và lòng yêu nước đan xen trong 14 nội dung giáo dục

GS Nguyễn Minh Thuyết cho biết, theo Nghị quyết số 33 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Nghị quyết số 03 ngày 16/7/1998 về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, có bản sắc dân tộc và bản sắc dân tộc) ngày 6/7. 9 năm 2014 và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước), Kế hoạch giáo dục quốc gia năm 2018 đã xác định 5 phẩm chất chính cần được hình thành. Thành công và sự phát triển của học sinh là: Yêu nước, Tử tế, Siêng năng, Trung thực và Trách nhiệm.

Kế hoạch quy định 14 nội dung giáo dục gồm giáo dục công dân, giáo dục quốc phòng và an ninh, giáo dục khoa học xã hội. Các nội dung giáo dục trên được thực hiện trong tất cả các ngành học và hoạt động giáo dục, trong đó có một số nội dung giữ vai trò trung tâm.

Giáo dục công dân có vai trò chủ đạo trong việc giáo dục ý thức và hành vi công dân cho học sinh. Giáo dục công dân giúp phát triển cho học sinh những phẩm chất công dân và năng lực cốt lõi, đặc biệt là tình cảm, ý thức, niềm tin và hành vi thông qua các môn học về lối sống, đạo đức, pháp luật, kinh tế, v.v., phù hợp với các chuẩn mực đạo đức và quy định pháp luật, cùng với các kỹ năng sống và dũng cảm học tập, lao động, dũng cảm đảm nhận trách nhiệm công dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Giáo dục công dân được thực hiện thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục, đặc biệt là các môn khoa học xã hội và các hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, trong đó các môn đạo đức (tiểu học), giáo dục công dân (trung học cơ sở), kinh tế, pháp luật (trung học cơ sở). những môn học chính.

Giáo dục khoa học xã hội có vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân sinh quan, thế giới quan, nâng cao nhân cách, giáo dục ý thức dân tộc, lòng yêu nước, giá trị nhân văn, tinh thần cộng đồng, … và trau dồi những phẩm chất tiêu biểu của công dân thế giới (kỹ năng, sự kết nối, nhân cách, tình yêu). Xu hướng, đổi mới, sáng tạo của thời đại … Giáo dục khoa học xã hội được triển khai ở nhiều môn học và hoạt động giáo dục, trong đó chủ đạo là các môn: Tự nhiên và Xã hội (Lớp 1,2,3); Lịch sử và Địa lý (Lớp 4-9 ); Lịch sử, Địa lý (Trung học).

Giáo dục quốc phòng và an ninh rèn luyện cho học sinh những kiến ​​thức, kỹ năng cơ bản về quốc phòng và an ninh, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. của Việt Nam. Giáo dục quốc phòng và an ninh ở tiểu học và trung học cơ sở được lồng ghép vào nội dung môn học và các hoạt động giáo dục nhằm bảo đảm cho học sinh hiểu biết sơ lược về truyền thống dựng nước và bảo vệ Tổ quốc của lực lượng vũ trang nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật. tinh thần đoàn kết, yêu quê hương, đồng bào. Giáo dục quốc phòng và an ninh ở trường trung học phổ thông là môn học bắt buộc nhằm bảo đảm cho học sinh hiểu biết sơ bộ về quốc phòng và an ninh nhân dân; bàn về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, của lực lượng vũ trang nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam; có kiến ​​thức cơ bản và cần thiết. kỹ năng phòng thủ dân sự và kỹ năng quân sự; chuẩn bị nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc.

Ngoài ra, lòng yêu nước còn được hun đúc trong nhiều môn học và hoạt động giáo dục khác như: Tiếng Việt, văn học, nghệ thuật (âm nhạc, mỹ thuật), hoạt động trải nghiệm, hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, nội dung giáo dục địa phương … Thông qua ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật , Nhà trường trau dồi những phẩm chất chủ yếu ở học sinh, đặc biệt là lòng yêu nước, sự đồng cảm, lòng trung thành, tính thực tế và trách nhiệm; hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực chung và hai năng lực cụ thể là ngôn ngữ và văn học.

Tại sao Lịch sử là một môn Tự chọn cho Khóa học Mới?

Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết cho rằng giáo dục lịch sử là môn học bắt buộc trong cả giai đoạn giáo dục cơ bản 9 năm. Trong trường tiểu học, từ lớp 1 đến lớp 5, các môn học như tự nhiên và xã hội, lịch sử, địa lý liên tục thực hiện nội dung giáo dục lịch sử, để học sinh nắm chắc một số nội dung cơ bản. Hăng hái, hứng thú học tập, rèn luyện sơ bộ những năng lực cơ bản của học sinh.

Ở cấp trung học cơ sở, nội dung giáo dục lịch sử được thực hiện theo chủ đề Lịch sử và Địa lý, liên tục từ lớp 6 đến lớp 9 nhằm giúp học sinh đặt nền tảng kiến ​​thức tổng quát về lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới. Thế giới, lịch sử Đông Nam Á, từ thuở sơ khai đến nay. Đồng thời, nội dung giáo dục lịch sử còn được thực hiện ở các bộ môn khác như đạo đức, giáo dục công dân, tiếng việt, văn học, hoạt động trải nghiệm, hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, nội dung giáo dục, v.v.

Có thể thấy, học sinh khi hoàn thành chương trình trung học cơ sở là đã hoàn thành toàn bộ nội dung giáo dục cơ bản trong đó có nội dung giáo dục lịch sử, có điều kiện cơ bản để phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi.

Ở cấp trung học phổ thông, chương trình lịch sử là chương trình chuyên sâu, giúp học sinh học các ngành khoa học xã hội và nhân văn tiếp cận nghề nghiệp tương lai của mình, bao gồm các chủ đề, chuyên đề: Lịch sử, Lịch sử; Các dân tộc Việt Nam; Lịch sử Làng Việt Nam; Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh giải phóng dân tộc trong lịch sử Việt Nam (trước Cách mạng tháng 8 năm 1945); Cách mạng tháng 8 năm 1945, chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh giải phóng dân tộc trong lịch sử Việt Nam (tháng 8 năm 1945 đến nay); Bảo vệ Việt Nam trong lịch sử biển Hoa Đông về Chủ quyền, Quyền hợp pháp; Một số Cải cách chính trong Lịch sử Việt Nam (trước năm 1858); Công cuộc Đổi mới ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay;…

Chọn 5 môn thuộc 3 nhóm ngành (nhóm khoa học xã hội, nhóm khoa học tự nhiên, nhóm công nghệ, nhóm nghệ thuật) theo yêu cầu, trong đó mỗi nhóm nên chọn ít nhất 1 môn bắt buộc trừ 7 môn, học sinh theo các hướng nghề khác vẫn được chọn. giáo dục phổ thông Lịch sử học tập đối với môn học được quy định trong kế hoạch giáo dục.

Từ đó có thể khẳng định rằng, chương trình giáo dục quốc dân mới, phù hợp với yêu cầu của Nghị quyết số 29 và các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ ban hành đã triển khai đồng bộ, toàn diện các nội dung giáo dục lịch sử, lòng yêu nước và Trách nhiệm dân sự.

“Giải pháp dạy học phân hóa cũng đáp ứng yêu cầu giảm gánh nặng, giảm số môn học, so với chương trình cũ (13 môn so với 17 môn), mặc dù so với chương trình của các nước (chương trình tú tài quốc tế) còn rất cao. . IB: 6 môn; chương trình Anh: 6 môn; chương trình Trung Quốc: 12 môn, …). Tôi tin rằng đa số học sinh và phụ huynh sẽ hiểu và đồng tình với phương án của chương trình giáo dục mới nhằm giảm bớt gánh nặng. ” Tổng chủ biên Chương trình Giáo dục năm 2018 Chắc chắn.

Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức xây dựng và ban hành Kế hoạch giáo dục quốc dân năm 2018 theo đúng chỉ đạo của Đảng và quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Dự thảo phương án đã được công bố công khai trên trang thông tin điện tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các trang thông tin điện tử khác theo quy định để lấy ý kiến ​​rộng rãi.

Sau khi lắng nghe ý kiến, ý kiến ​​của các chuyên gia trong và ngoài Hội đồng thẩm định (Ban thẩm định chương trình tổng thể, Ban thẩm định đề án kỷ luật), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã gửi dự thảo phương án để lấy ý kiến ​​Ban Tuyên giáo Trung ương; Văn hóa Quốc hội, Ủy ban Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng; Bộ Quốc phòng, Công an, Bộ Ngoại giao, nhiều Bộ, ngành, tổ chức khác, trong đó có Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Trên cơ sở nhất trí của các cơ sở, tổ chức nêu trên, Kế hoạch giáo dục mới đã được ban hành theo Thông tư số 32 ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo – GS.

Hưởng ứng ngày 18 của người khuyết tật Việt Nam

Trong thời gian qua, việc thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật được toàn tỉnh chú trọng và được xác định là nhiệm vụ quan trọng nhằm giúp người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật được hưởng các dịch vụ pháp lý. Hằng năm, Trung tâm Trợ giúp pháp lý quốc gia tỉnh đề xuất Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kế hoạch thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật, người có khó khăn về tài chính.

Nhân viên trung tâm trợ giúp pháp lý tiến hành vận động, trợ giúp pháp lý và tặng quà cho người nghèo,

Người tàn tật ở quận Lanping

Thực hiện trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật thông qua tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài vụ kiện, truyền thông trợ giúp pháp lý, v.v. và lồng ghép để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả. Trợ giúp viên pháp lý luôn bảo đảm lợi ích hợp pháp tốt nhất của người khuyết tật khi tham gia tố tụng và đại diện cho họ ngoài tố tụng. Từ đầu năm đến nay, trung tâm đã tiếp nhận 9 trường hợp thực hiện TGPL cho người tàn tật.

Đa số người khuyết tật đi lại khó khăn nên các trợ giúp viên pháp lý và luật sư ký hợp đồng trợ giúp pháp lý đã nỗ lực hết sức xuống cơ sở để rà soát, kiểm tra, thu thập tài liệu. Tham gia tranh tụng và bảo vệ quyền lợi của mình. Các vụ việc tham gia đều thành công, có hiệu quả, chất lượng tốt và người được trợ giúp pháp lý hài lòng với kết quả vụ việc.

Để nâng cao chất lượng TGPL, Bộ Tư pháp và Trung tâm TGPL quốc gia luôn chú trọng nâng cao năng lực cho người thực hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng người thực hiện trợ giúp pháp lý. Trợ giúp pháp lý cho người tàn tật. Ngoài ra, trung tâm cũng đã tăng cường phối hợp, hiệp đồng với các văn phòng, trại tạm giam, UBND thị trấn để đảm bảo 100% người khuyết tật được trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu.

Trung tâm Trợ giúp pháp lý quốc gia tỉnh cũng chú trọng thực hiện các hoạt động trao đổi, truyền thông trực tiếp ở cơ sở về trợ giúp pháp lý và quyền được trợ giúp pháp lý cho người tàn tật, biên soạn các văn bản quy phạm pháp luật, tài liệu hướng dẫn công khai chính sách trợ giúp pháp lý cũng như quyền trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật. người và người tàn tật gặp khó khăn về tài chính. Từ đầu năm đến nay, Trung tâm TGPL tỉnh đã in ấn hơn 12.000 cuốn tài liệu trợ giúp pháp lý công khai.

Nhân viên trung tâm trợ giúp pháp lý tiến hành vận động, trợ giúp pháp lý và tặng quà cho người nghèo,

Người tàn tật ở quận Lanping

Đồng chí Lai Kelin, Giám đốc Trung tâm TGPL tỉnh cho biết, người khuyết tật là người khuyết tật về thể chất hoặc tinh thần, thường tự ti, trình độ hạn chế, chưa mạnh dạn thực hiện quyền của mình. Hỗ trợ pháp lý trong trường hợp vướng mắc và tranh chấp pháp lý. Người khuyết tật về thể chất có thể hiểu được tâm tư, nguyện vọng của họ thông qua giao tiếp, nhưng người khuyết tật về tinh thần phải thông qua người thân nên đôi khi rất khó xác định mong muốn của người khuyết tật có phải là sự thật hay không. Nhìn chung, với mọi vụ việc trợ giúp pháp lý về người khuyết tật, các trợ giúp viên pháp lý luôn khó chịu. Mong rằng cộng đồng, xã hội cần nhiều hơn nữa sự quan tâm, chia sẻ của những đối tượng này.

Đồng chí Li Kelin cũng cho rằng, để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật, cần tiếp tục triển khai các hoạt động trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật bằng nhiều hình thức. Họ là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, đặc biệt là người khuyết tật dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ trợ giúp pháp lý để họ tìm hiểu về hoạt động trợ giúp pháp lý, xóa bỏ rào cản, tự ti. Ngoài ra, theo tâm lý và tình trạng của người khuyết tật, chất lượng và kỹ năng của người thực hiện trợ giúp pháp lý cần được nâng cao thông qua đào tạo, tập huấn; tăng cường phối hợp, hợp tác với các cơ quan tố tụng để đảm bảo 100% người khuyết tật được trợ giúp pháp lý. và các quyền và lợi ích hợp pháp của người tàn tật sẽ được bảo vệ ở mức độ cao nhất có thể.

Theo TQĐT

Đánh giá lại luận án tiến sĩ cầu lông chỉ làm dư luận yên tâm

Như vậy, việc xem xét các luận án tiến sĩ có phải là công việc thường ngày, hay phải đợi đến khi có phản ánh, khiếu nại, lên án? Làm thế nào để đảm bảo chất lượng đào tạo trình độ tiến sĩ trong các cơ sở giáo dục?

Phóng viên VOV Giao thông trao đổi với bà Nguyễn Thị Việt Nga, Ủy viên Ủy ban Văn hóa Giáo dục Quốc hội.

Nghe thông tin chi tiết tại đây:

PV: Ông đánh giá thế nào về việc đánh giá lại luận án tiến sĩ được dư luận phản ánh?

Bà Nguyễn Thị Việt Nga: Việc giám định của Bộ Giáo dục và Đào tạo là cần thiết, tuy nhiên việc giám định này chỉ nhằm trấn an dư luận vì việc chấm thẩm định luận văn vẫn được Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành thường xuyên.

Theo kế hoạch hàng năm, Bộ Giáo dục vẫn chấm thẩm định lại các bài đạt điểm quốc phòng theo tỷ lệ nhất định. Vậy tại sao công việc này được tiến hành thường xuyên nhưng Bộ GD-ĐT chưa phát hiện ra vấn đề gì, phải chờ dư luận lên tiếng.

Thứ hai, Bộ Giáo dục đánh giá các bài báo bằng ý kiến, và làm gì với các bài báo mà không cần đánh giá.

Tôi tin chắc rằng có rất nhiều bài báo mà công chúng không được tiếp cận. Đánh giá là ưu tiên nhưng tôi nghĩ cần hơn cả không chỉ đánh giá lại mà phải chấn chỉnh các bộ để công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học thực sự nghiêm túc.

PV: Vậy ông đánh giá thế nào về chất lượng của các luận án tiến sĩ đang làm dậy sóng dư luận thời gian gần đây?

Bà Nguyễn Thị Việt Nga: Tôi cho rằng dư luận là chính đáng, và tôi thấy không hài lòng khi đề tài nghiên cứu của một luận án tiến sĩ lại vô cùng đơn giản.

Tôi đọc luận án tiến sĩ được dư luận quan tâm, từ tên đề tài đến nội dung tóm tắt đều không có kiến ​​thức khoa học, đề xuất giải pháp mới trong luận án tiến sĩ nên tôi thấy chất lượng không được. đảm bảo. .

Thật là vô trách nhiệm đối với nền giáo dục và giới học thuật nếu để trượt những luận án tiến sĩ này. Chúng tôi đã cho phép điều này xảy ra trong một thời gian dài và nó là phổ biến, và tôi nghĩ rằng điều đáng để suy nghĩ lại về tình trạng đào tạo Tiến sĩ của chúng tôi.

PV: Chúng ta nên chủ động quản lý chất lượng đào tạo tiến sĩ như thế nào trong các cơ sở giáo dục, thay vì chờ phản hồi và đánh giá lại?

Bà Nguyễn Thị Việt Nga: Cơ quan chủ quản của Bộ GD-ĐT cần hết sức cương quyết không chạy theo thành tích.

Hành lang pháp lý của chúng ta đã có những quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn tương đối chặt chẽ, vấn đề là việc thực hiện chưa chặt chẽ, còn vướng mắc trong khâu kiểm tra đánh giá.

Trong thời gian tới, chúng ta cần cẩn trọng hơn trong khâu tổ chức thực hiện và khâu thẩm định để có được những giấy tờ có giá chứ không phải những giấy tờ vừa được dư luận phản ánh.

PV: Xin cảm ơn bà!

Phân loại giáo dục của Việt Nam lệch so với tiêu chuẩn quốc tế

Bắt đầu từ năm 2017, việc quản lý hệ thống học viện trên toàn quốc không còn là trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhiều chuyên gia cho rằng sự thay đổi này đã làm gián đoạn các hoạt động giáo dục và đào tạo.

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến, Phó chủ tịch Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam cho biết trong một cuộc trao đổi với phóng viên Tạp chí Giáo dục điện tử Việt Nam: “Giáo dục nghề nghiệp là giáo dục dành cho học sinh. Hệ thống giáo dục quốc dân được thiết kế để đào tạo trình độ sơ cấp. , trình độ trung cấp và đại học ”(“ Giáo dục nghề nghiệp là giáo dục cho học sinh. ”Đạo luật Giáo dục Nghề nghiệp, 2014) xóa bỏ ranh giới giữa giáo dục hướng nghiệp và hướng nghiệp. Cũng chính từ đây, việc phân luồng học sinh sau THCS gặp không ít trở ngại.

Vì vậy, cơ sở giáo dục đại học không được coi là cơ sở giáo dục đại học, quản lý giáo dục nghề nghiệp là dùng chung. Các cơ sở giáo dục phổ thông, trường đại học, trường đại học và trường cao đẳng đào tạo giáo viên do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, còn lại do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý. Điều này gây ra nhiều hậu quả khôn lường.

TS Lê Viết Khuyến cho rằng, theo thông lệ chung hiện nay, để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, các quốc gia cần tuân theo “Phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế” do UNESCO ban hành, phiên bản mới nhất là “Phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế “phát hành năm 2011. -2011.

Tài liệu có hiệu lực trên toàn cầu từ năm 2014 đối với tất cả các thành viên UNESCO, bao gồm cả Việt Nam, nhằm xác định trình độ của các chương trình giáo dục và đào tạo cụ thể.

Cơ sở này giúp chúng ta có thể đánh giá chương trình giáo dục của quốc gia này hay quốc gia đó có tương đương nhau hay không? Có phù hợp với thông lệ quốc tế không?

“Phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế” – ISCED 2011 được chia thành 9 cấp học, cụ thể: cấp 0 là giáo dục mầm non; cấp tiểu học cấp một; cấp trung học cơ sở cấp hai, chia thành cấp học phổ thông trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông dạy nghề hai cấp. , Giáo dục nghề nghiệp sơ cấp; trình độ trung học phổ thông cấp 3 (trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp hệ trung cấp nghề); trình độ sau trung học cơ sở 4 nhưng chưa có trình độ cao đẳng; trình độ đại học 5; trình độ cử nhân và trình độ tương đương 6 ; trình độ thạc sĩ 7; trình độ tiến sĩ 8.

Cũng theo ISCED-2011, các cấp độ 2, 3 thuộc cấp trung học cơ sở và các cấp độ 5, 6, 7 và 8 thuộc cấp học cao hơn. Không có khái niệm “trình độ học nghề” như ở Việt Nam.

Theo ISCED-2011, các chương trình cấp bằng đại học ưu tiên trong giáo dục đại học đều là cấp độ 5 và nhìn chung nhằm cung cấp cho người học kiến ​​thức, kỹ năng và năng lực chuyên biệt.

Thông thường, các khóa học này có nội dung hướng đến thực hành, phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp và chuẩn bị cho người học tham gia lực lượng lao động. Đồng thời, các khóa học này cũng cung cấp các con đường dẫn đến các khóa học cao hơn khác (cấp 6, 7 và 8).

Để tham gia chương trình giáo dục đại học, học sinh phải hoàn thành Cấp độ 3 (trung học phổ thông hoặc tương đương). Ngoài ra, mỗi cấp độ đều có các tiêu chí đánh giá về số năm học tích lũy, cấu trúc nội dung khóa học, định hướng khớp nối, v.v. và tất cả các tiêu chí trên phải được đáp ứng đầy đủ để cấp bằng tốt nghiệp cho người học ở cấp độ tương ứng (ví dụ: , bằng tốt nghiệp cấp 3, bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, bằng Cao đẳng, bằng Cử nhân, …).

Nếu chỉ đáp ứng một số tiêu chí, trong trường hợp này, người học thường chỉ lấy được chứng chỉ / bằng tốt nghiệp nghề (ví dụ: Bằng Trung cấp Y, Bằng Sư phạm THCS 10 + 3, Bằng Cao đẳng), Bằng Ngân hàng, Bằng Kỹ thuật viên Cao cấp, Bằng tốt nghiệp Trung cấp Kỹ thuật Cơ điện, …). Ở Việt Nam, quy định vẫn còn nhiều khó hiểu.

Luật Dạy nghề năm 2006 quy định dạy nghề bao gồm trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề với mục tiêu “ươm mầm tài năng kỹ thuật trực tiếp sản xuất, dịch vụ, có năng lực thực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo”. (Điều 4).

Năm 2014, Đạo luật Giáo dục Nghề nghiệp đã thay thế Đạo luật Dạy nghề. Trình độ sơ cấp nghề, trung cấp và cao đẳng được viết lại thành trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng.

Tuy nhiên, mục tiêu chung của giáo dục nghề nghiệp vẫn được đặt ra theo Luật dạy nghề năm 2006; trong khi các mục tiêu cụ thể ở trình độ đại học được thiết kế theo cấu trúc “tích lũy”, với mục tiêu ở trình độ sơ cấp và trung cấp (Điều 4), không ” Cấu trúc đồng tâm ”.

Về bản chất, trình độ đại học trong Đạo luật Giáo dục Nghề nghiệp là giáo dục sau trung học chứ không phải là giáo dục đại học và chỉ tương đương với ISCED 2011 cấp 4 trở xuống.

Đồng thời, các chương trình đại học “đích thực” phải luôn hướng tới sự tiến bộ trong học tập để đảm bảo tương đương với ISCED cấp độ 5 2011 – cấp độ đầu tiên của giáo dục đại học do ISCED (Bộ Giáo dục và Đào tạo cũ) hướng dẫn.

Rõ ràng, các trường đại học ở Việt Nam hiện nay đều có chương trình đào tạo sau trung học cơ sở nhưng không có chương trình giáo dục đại học, nhưng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội vẫn chỉ định là cấp độ 5 theo ISCED-2011.

Đây là lỗi ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động phân luồng sinh viên và đào tạo đại học.

Fan Ming

Học Tiến sĩ tốn bao nhiêu tiền?

Điều 11 khoản 3 Nghị định số 81/2021 / NĐ-CP (có hiệu lực ngày 15/10/2021) quy định mức học phí trên trình độ thạc sĩ, tiến sĩ như sau: Nó được xác định bằng cách nhân mức trần học phí giáo dục phổ thông quy định tại khoản 1 và 2 của Điều này với 1,5 lần của khóa đào tạo. Trình độ thạc sĩ, mức độ tự chủ được xác định theo hệ số đào tạo trình độ tiến sĩ là 2,5 tương ứng với từng khối đào tạo trong từng năm học ”.

So sánh học phí đào tạo các đối tượng, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có bảng sau:

Học phí đào tạo trình độ tiến sĩ trong các cơ sở giáo dục đại học công lập được giới hạn ở mức:

(Đơn vị: nghìn đồng / NCS / tháng)

Học phí đào tạo trình độ tiến sĩ tại các cơ sở giáo dục đại học công lập bao gồm chi phí định kỳ được giới hạn ở mức:

(Đơn vị: nghìn đồng / NCS / tháng)

Học phí đào tạo trình độ tiến sĩ tại các cơ sở giáo dục đại học công lập có khả năng tự trang trải chi phí đầu tư và định kỳ được giới hạn ở mức:

(Đơn vị: nghìn đồng / NCS / tháng)

Chương trình đào tạo của cơ sở giáo dục đại học công lập đạt trình độ cấp chứng chỉ của chương trình đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định hoặc đạt trình độ cấp chứng chỉ của chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quy định do Bộ Giáo dục xây dựng và Tập huấn. Tiêu chuẩn nước ngoài hoặc tiêu chuẩn tương đương thì cơ sở giáo dục đại học có quyền xác định mức học phí của khóa học phù hợp với quy chuẩn kinh tế – kỹ thuật do cơ sở giáo dục ban hành và giải trình công khai. với người học và xã hội.

Ngoài ra, tại Thông tư số 18/2021 / TT-BGDĐT của Bộ GD & ĐT (có hiệu lực từ ngày 15/8/2021) về quy chế tuyển sinh trình độ tiến sĩ và đào tạo trình độ tiến sĩ đã quy định rõ thời gian đào tạo nâng cao. Các tiến sĩ như sau:

Thời gian đào tạo chuẩn trình độ tiến sĩ là từ 3 năm (36 tháng) đến năm 2004 (48 tháng), được cơ sở đào tạo xác định để đảm bảo hầu hết nghiên cứu sinh hoàn thành kế hoạch đào tạo trong thời gian này. Mỗi nghiên cứu sinh có chương trình học tập, nghiên cứu toàn thời gian trong khung thời gian đào tạo chuẩn đã được phê duyệt và có quyết định tiếp nhận nghiên cứu sinh.

Nghiên cứu sinh có thể hoàn thành chương trình đào tạo sớm hơn chương trình học tập, nghiên cứu toàn khóa hoặc muộn hơn chương trình học tập, nghiên cứu toàn khóa trong thời gian không quá 2001 (12 tháng), nhưng tổng thời lượng của chương trình là giới hạn. Thời gian đào tạo không quá năm 2006 (72 tháng) kể từ ngày quyết định công nhận nghiên cứu sinh có hiệu lực đến khi hoàn thành việc nộp luận án cho cơ sở đào tạo và phản biện. Ủy ban Đánh giá Tài liệu của Cơ quan Đào tạo.

Theo cách này, với mức học phí đã tính và 3-4 năm học, có thể tính được tổng học phí mà nghiên cứu sinh sẽ phải trả trước khi lấy bằng Tiến sĩ.

Lingzhuang

Phát hiện nhiều sai phạm của người đứng đầu tại Phòng Giáo dục huyện Đức Cơ

Ngày 8/5, Thanh tra huyện Đức Cơ (Gia Lai) xác nhận vừa có kết luận số 02 / KL-TTr về những sai phạm của Bộ Giáo dục trong việc mua sắm tài liệu, thiết bị dạy học và bồi dưỡng trên địa bàn huyện Đức Cơ.

Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Đức Cơ để xảy ra nhiều sai phạm trong quá trình đấu thầu. Ảnh: tấn

Theo kết luận, năm 2020, Bộ GD-ĐT huyện Deco nhận hơn 5,3 tỷ đồng làm chủ đầu tư dự án mua sắm vật tư, trang thiết bị và hệ thống thể dục thể thao. Các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở trên địa bàn.

Sau khi nhận được kinh phí, Bộ Giáo dục chính thức cử người đến các trường trực thuộc đăng ký nhu cầu và tiến hành đấu thầu triển khai dự án.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai dự án, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Deco đã để xảy ra nhiều sai phạm.

Cụ thể, chủ đầu tư hợp đồng thuê tư vấn của cùng một công ty để thi công từ 2 đến 3 hạng mục trong cùng một dự án, gói thầu dẫn đến không đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu theo quy định.

Ngoài ra, theo hợp đồng mua sắm một số dụng cụ thể thao như vợt cầu lông, đồng hồ bấm giờ, thước cuộn … thì rõ ràng phải sản xuất tại Việt Nam, nhưng quy trình mua sắm lại không đúng. Trong hợp đồng không ghi rõ các hạng mục này dẫn đến chênh lệch giá hơn 127 triệu đồng.

Tương tự, qua kiểm tra hồ sơ, đối chiếu với kết quả xác minh của nhà trường, Thanh tra huyện Đức Cơ phát hiện việc mua 106 bộ cột đa năng được chủ đầu tư ghi giá thanh toán cao hơn giá thị trường, chênh lệch gần đồng. 149 triệu. .

Máy lọc nước sinh hoạt, theo hợp đồng, công suất lọc của máy này là 50 lít / giờ / chiếc, nhưng qua kiểm tra thực tế, công suất chỉ đạt 39 lít / giờ / chiếc (giảm 11 lít / giờ so với hợp đồng). Đồng dung tích tương đương 22%); sau khi tính toán, phần chênh lệch còn lại 12% giá trị hao mòn ngoài thời gian sử dụng được trừ, tương đương gần 110 triệu Rupiah.

Đồng thời, qua kiểm tra thực tế tại một số trường, vẫn còn nhiều trang thiết bị chưa được đưa vào sử dụng.

Ngoài ra, việc Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Đê thuê tư vấn theo giá hợp đồng để giám sát việc lắp đặt tài liệu, thiết bị, dụng cụ giáo dục thể chất và hệ thống lọc nước là vi phạm quy định của Luật Xây dựng. Gần 45 triệu đồng.

Do để xảy ra sai phạm nêu trên, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Đức Cơ đã chi sai sót với tổng số tiền hơn 431 triệu đồng.

Theo kết luận của Thanh tra huyện Đức Cơ, để xảy ra những khuyết điểm, sai sót nêu trên, trách nhiệm thuộc về ông Võ Công Dương, nguyên Giám đốc GD & ĐT huyện (nay đã nghỉ hưu);

Bà Nguyễn Thị Châu – phụ trách kế toán và ông Nguyễn Tấn Cường – phụ trách tham mưu tư vấn thực hiện dự án mua sắm vật tư, trang thiết bị thể thao và hệ thống nước sạch đến năm 2020.

Vì vậy, Thanh tra huyện đã yêu cầu Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Deco tổ chức kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của các tập thể, cá nhân có sai phạm trong việc triển khai dự án.

Đồng thời, đề nghị Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Đê có trách nhiệm thu hồi số tiền sai phạm hơn 431 triệu đồng nộp ngân sách nhà nước.

Nhà Minh

Bộ Giáo dục chuẩn bị thẩm định sách giáo khoa lớp 8 và lớp 11

Theo đó, các tổ chức, cá nhân đề nghị kiểm định SGK phải đăng ký với Bộ GD & ĐT trước tháng 5/2018 số lượng và tên mẫu SGK lớp 8, lớp 11 theo kế hoạch giáo dục phổ thông cũng như các hoạt động giáo dục. Ngày 10 tháng 10 năm 2022.

Số lượng mẫu sách giáo khoa đăng ký cho mỗi môn học hoặc hoạt động giáo dục là cơ sở để Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp nhận hồ sơ thẩm định mẫu sách giáo khoa.

Đồ họa: Nguồn NXBGDVN

Các kho lưu trữ có yêu cầu thẩm định sách giáo khoa thực hiện theo quy định tại Điều 17, Thông tư 33 và Thông tư 05. Trong đó, số lượng mẫu sách; mô tả mẫu sách giáo khoa cần xem xét (tên sách giáo khoa; phân công trách nhiệm của tổng chủ biên, tổng biên tập nếu sách có tổng biên tập. , tổng chủ biên hoặc tác giả; mục đích biên soạn; mục đích biên soạn), đối tượng và phạm vi sử dụng; cấu trúc, nội dung; báo cáo kết quả và quá trình thực nghiệm; báo cáo tổ chức lấy ý kiến, tiếp thu và đánh giá mẫu sách giáo khoa của nhà giáo, nhà khoa học, nhà giáo dục; phân phối chương trình cho từng mẫu sách giáo khoa) như sau:

Lớp 8, tương ứng với từng mẫu SGK cho từng môn: Toán, Ngữ văn, Tiếng Anh: 20 bộ; Khoa học Tự nhiên, Lịch sử, Địa lý: 25 bộ; Các môn học và hoạt động giáo dục còn lại: 15 bộ.

Lớp 11, tương ứng với từng mẫu SGK cho từng môn học, các hoạt động giáo dục: toán, văn, tiếng Anh, hoạt động trải nghiệm và hướng nghiệp: 20 bộ; các môn còn lại: 15 bộ.

Hồ sơ lớp 8 sẽ được nhận trong giờ hành chính, ngày 10-15 / 7/2022. Lớp 11, giờ hành chính từ ngày 25 – 30/7/2022 (các đơn vị, cá nhân có thể nộp hồ sơ thẩm định sách giáo khoa lớp 11 cùng thời điểm với lớp 8). Nếu hồ sơ được nộp qua đường bưu điện, thời gian sẽ được tính dựa trên ngày đóng dấu bưu điện trên bao bì.

Địa điểm đón tiếp tại Phòng Giáo dục và Đào tạo, số 35, phố Đại Cồ Việt, quận Hai Bà Trưng, ​​Hà Nội. Đơn vị tiếp nhận hồ sơ là Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Theo lộ trình, sách giáo khoa lớp 8 và lớp 11 mới sẽ được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông vào năm học 2023-2024.