Thành phố. Hồ Chí Minh: Hàng nghìn thí sinh thi vào lớp 10 sáng nay

Hơn 2.300 học sinh dự thi vào lớp 10 đầu tiên tại TP.HCM. Hồ Chí Minh. (Nguồn: Laodong)

Thí sinh cả nước có nhu cầu vào học tại các trường THPT năng khiếu đều có thể tham gia, dù ở đâu.

Học sinh phải thi 4 môn, trong đó 3 môn không chuyên: Toán, Ngữ văn và Tiếng Anh; tự chọn 1 bài thi các môn: Toán, Tin học, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Ngữ văn và Tiếng Anh.

Mỗi thí sinh được đăng ký dự thi tối đa 2 môn. Bài thi không chuyên gồm phần tự luận và phần trắc nghiệm. Bài kiểm tra chủ đề là một bài luận. Điểm thi tính theo thang điểm 10, hệ số 1 đối với các bài thi không chuyên và hệ số 2 đối với các bài thi. Học sinh sẽ thi vào 3 ngày 4, 5 và 6/6.

Năm nay, các môn có nhiều thí sinh dự thi nhất là tiếng Anh và toán. Trong số đó, 993 người bằng tiếng Anh và 672 người trong môn toán. Nơi tuyển sinh các chuyên ngành tiếng Anh và toán, mỗi lớp 70 học sinh. Do đó, tỷ lệ chọi vào một lớp học tiếng Anh chuyên nghiệp là 1 trên 14. Tỉ lệ chọi vào lớp chuyên Toán THPT chuyên là 1 trên 9,6.

Năm học 2022-2023, trường tuyển sinh 9 lớp chuyên: Toán (Lớp 2), Tiếng Anh (Lớp 2), Tin học (Lớp 1), Vật lý (Lớp 1), Hóa học (Lớp 1), Sinh học (Lớp 1) , Ngữ văn (Mức 1). Chỉ tiêu chung là 315 học sinh, mỗi lớp không quá 35 học sinh, học tại Quận 5.

Trường không cho phép mang đề thi ra sau mỗi môn thi mà sẽ công bố đề thi sau khi môn thi kết thúc.

Năm ngoái, điểm chuẩn vào lớp 10 chuyên Hóa cao nhất là 35,35 điểm.

Xếp thứ hai là điểm chuẩn vào lớp 10 môn tiếng Anh là 35,3 điểm. Tiếp theo là điểm chuẩn các môn Vật lý (trắc nghiệm Vật lý), Toán và Ngữ văn của học sinh lớp 10.

Sinh viên trúng tuyển phải đáp ứng các tiêu chí sau:

Xếp loại hạnh kiểm và học lực của các lớp THCS cả năm học từ loại khá đến loại khá;

Tốt nghiệp THCS loại khá trở lên;

Điểm kiểm tra đầu vào (điểm lớp) trên điểm chuẩn;

Hoàn thành các bài thi theo quy định, không vi phạm nội quy trong kỳ thi tuyển sinh với số điểm các bài thi trên 2 điểm lớn hơn 2.

Bằng tiến sĩ. Hoàng Trung Học: Cần xem xét việc đưa thông tin bạo lực học đường lên không gian mạng

Bằng tiến sĩ. Hoàng Trung Học, Chuyên gia Tâm lý học đường, Trưởng khoa Tâm lý – Giáo dục Trường Cán bộ quản lý giáo dục cho biết …

TP.HCM vụ bạo hành trường quốc tế

UBND TP.HCM đã báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo vụ bạo hành học sinh trường quốc …

Bạn có nên khoe giấy cảm ơn của mình trên mạng xã hội không?

Cuối năm học cũng là thời điểm mạng xã hội tràn ngập cảnh phụ huynh, giáo viên đăng tải hình ảnh điểm số, kết quả học tập của con em mình.

Dễ gây áp lực cho trẻ

Trong nhóm “Chúng tôi là giáo viên”, status “Thật lòng mong các bậc phụ huynh đừng đăng chứng chỉ tín dụng của con em mình lên Facebook. Nếu đồng ý thì bấm ok” đã nhận được 9.400 lượt thích và 1.700 bình luận khác nhau sau một ngày. Nhiều ý kiến ​​trái chiều về việc có nên khoe thành tích học tập của trẻ lên mạng xã hội hay không đã được cộng đồng cô giáo chia sẻ rầm rộ.

Tiến sĩ Nguyễn Đồng Lâm, Chủ tịch Hội Tâm lý Giáo dục Hà Nội cho rằng, sau một năm học tập chăm chỉ, điểm tốt của trẻ cần được ghi nhận và khen thưởng. Nhưng các bậc cha mẹ cần cân nhắc và hỏi ý kiến ​​của con cái khi đăng tải lên mạng xã hội. “Một đứa trẻ học tốt, chăm ngoan là niềm tự hào của bất kỳ ai. Khen thưởng cho một đứa trẻ là rất cần thiết, nhưng theo tôi, trẻ em nên được coi là lĩnh vực riêng tư của gia đình. Mạng xã hội là nơi thông tin có thể đến với tất cả mọi người. Có rất nhiều không lường trước được những rủi ro đôi khi đưa thông tin cá nhân lên mạng xã hội ”- TS Nguyễn Tùng Lâm.

Trên thực tế, việc đăng những lời chứng thực lên mạng xã hội gây rất nhiều áp lực cho trẻ em, ông Lim nói. Không chỉ thể hiện rằng con ngoan ngoãn, ham học mà còn là động lực để con tiếp tục học hành chăm chỉ và ngoan ngoãn. Vô hình trung, gây áp lực cho con cái. Vị chuyên gia chia sẻ, đôi khi cha mẹ kỳ vọng quá cao mà vô tình ép con cái phải nghe theo ý của người lớn.

Chị Nguyễn Thu Trang, ngụ tại quận Cầu Giấy, Hà Nội cho biết, hai năm trở lại đây, các con chị không còn thích về quê ngoại nhiều như trước. “Tôi phải mất một thời gian dài để hiểu lý do tại sao con trai tôi không muốn về quê, đó là nó không muốn đối mặt với kết quả năm nay. Nó có phải là học sinh giỏi hay không? Có vẻ như vấn đề đã nảy sinh. Sự lo lắng bình thường này hóa ra lại là một vấn đề đối với đứa trẻ. Mang lại áp lực nặng nề. Người con trai thừa nhận rằng mình đã “bỏ trốn” và không về quê chỉ để trốn tránh trả lời những câu hỏi như vậy ”, bà Dong cho biết. Không chỉ con chị mà nhiều trẻ khác cũng cảm thấy như vậy, phụ huynh này cho biết. “Con trai tôi nói với tôi rằng không chỉ cháu mà nhiều bạn trong lớp đều bị căng thẳng vì những vấn đề tương tự khi gặp người thân”, bà Trang nói.

Tiến sĩ Huang Yurong, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục nghề nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng, dù không ai nói thẳng ra nhưng thực ra có một ý kiến ​​ngầm hiểu rằng ngoài việc tự hào về điểm tốt của con mình, các bậc cha mẹ còn cũng có chút tự hào về bản thân. Bên cạnh những lời khen ngợi con được 9, 10 điểm thì cũng có rất nhiều bình luận khen ngợi bố mẹ nuôi dạy con ngoan khiến bố mẹ rất hài lòng.

Lời kêu gọi không khoe thông tin đăng nhập xuất sắc của con bạn trên Facebook trên Diễn đàn dành cho giáo viên đang được quan tâm. Ảnh: Facebook

khen đúng không?

Cô Đoàn Diệu Anh, giáo viên Trường THCS Giang Vũ (TP. Hà Nội) cho biết, về mặt tình cảm, việc khoe con trên Facebook là tích cực và thể hiện niềm tự hào của cha mẹ. Khen ngợi động viên là tốt, nhưng cách bạn đưa ra mới là điều quan trọng.

Khen ngợi quá nhiều có thể khiến trẻ trở nên kiêu ngạo và tạo thêm căng thẳng nếu không khen ngợi khả năng của trẻ, một chuyên gia giáo dục cho biết. Khen ngợi không phù hợp có thể dẫn đến áp lực “phải cho cha mẹ bằng được” thay vì nhiều em tự học. Khi điểm số không tốt như mong đợi, một loại áp lực khác được tạo ra khiến phụ huynh và trẻ em thất vọng.

Tuy nhiên, một giảng viên Trường ĐH Hưng Đức (tỉnh Thìn Hóa) cho rằng, bằng khen lừa đảo, không đăng thì xấu hổ, còn công sức của cả nhà thì không có gì sai cả. ẩn giấu. “Bố mẹ nào thích thì khoe ra, mình ủng hộ, không đăng thì không thích, mình tôn trọng cá tính của mọi người” – giảng viên chia sẻ. Quan điểm này được nhiều giáo viên ủng hộ.

Một giảng viên Đại học Hà Nội cho biết cô không đăng chứng nhận xuất sắc của con mình lên Facebook, dù con cô vẫn đạt giải ở các trường chuyên nghiệp. “Tính mình là vậy nhưng mình vẫn tôn trọng và chia sẻ niềm vui của những người làm cha mẹ đăng lên Facebook. Ai cũng có một niềm vui, một niềm hạnh phúc, muốn chia sẻ thì có thể chia sẻ cùng. Con cái vẫn là con nít nên phải động viên, khuyến khích, đừng quá khắt khe với các em ”- cô giáo nói.

Giúp con bạn nhận ra giá trị đích thực của việc học

TS Hoàng Ngọc Vinh cho biết kỳ vọng của con cái càng cao thì cha mẹ càng muốn con học. Điều này dẫn đến việc ngày càng có nhiều trẻ em đến các phòng khám để trị liệu tâm lý vì áp lực học hành từ gia đình. Tôi biết một số trẻ trước đây ngoan ngoãn và thích học, nhưng càng về sau càng không thích học. Cha mẹ càng tạo áp lực cho chúng, trẻ càng trở nên phản kháng, và một số sợ học, tách khỏi bố mẹ, rơi vào trầm cảm, thậm chí dẫn đến những hành vi tự hủy hoại bản thân. Xin đừng “đánh cắp” tuổi thơ của con mình vì những ham muốn của bản thân. Làm cho con bạn nhận thức được giá trị đích thực của việc học.

Yan Ying

Bình Dương Bình Phúc thiếu 4.500 giáo viên năm học 2022

Bình Dương, Bình Phước thiếu 4.500 giáo viên cho năm học 2022-2023

Chủ nhật, 06:00, ngày 06 tháng 05 năm 2022

VOV.VN – Bộ GD & ĐT Bình Dương và tỉnh Bình Phước cho biết hai nơi đang thiếu hàng nghìn giáo viên do chuẩn bị cho năm học 2022-2023 qua một đợt rà soát.

Năm học 2021-2022, Bình Dương có 728 trường công lập và ngoài công lập với gần 500.000 học sinh (tăng 14.000 học sinh so với năm học trước). Hiện toàn tỉnh có hơn 15.000 giáo viên, trong đó có gần 14.300 giáo viên và hơn 700 giáo viên hợp đồng. Dự kiến ​​năm học 2022-2023 số học sinh sẽ tăng, Bình Dương sẽ thiếu khoảng 3.000 giáo viên.

Bình Dương thiếu khoảng 3.000 giáo viên cho năm học 2022-2023

Các nơi trên địa bàn tỉnh Bình Dương đang chuẩn bị tuyển dụng. Sau khi biên chế mới được thành lập, nếu còn thiếu giáo viên, Sở GD & ĐT sẽ đề xuất với UBND tỉnh chủ trương thực hiện hợp đồng để lấp chỗ trống.

Tại Pingfu, năm học 2022-2023, theo thống kê, toàn tỉnh thiếu khoảng 1.500 giáo viên, riêng môn tin học và tiếng Anh thiếu 178 giáo viên. Lãnh đạo tỉnh Bình Phục đã yêu cầu các sở, ban, ngành, địa phương có biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn, có kế hoạch giải quyết kịp thời, bổ sung nhân sự đáp ứng nhu cầu giảng dạy.

Thiên Lý / VOV-TP.HCM

Bạn có nên khoe giấy cảm ơn của mình trên mạng xã hội không?

Cuối năm học cũng là thời điểm mạng xã hội tràn ngập cảnh phụ huynh, giáo viên đăng tải hình ảnh điểm số, kết quả học tập của con em mình.

Dễ gây áp lực cho trẻ

Trong nhóm “Chúng tôi là giáo viên”, status “Thật lòng mong các bậc phụ huynh đừng đăng chứng chỉ tín dụng của con em mình lên Facebook. Nếu đồng ý thì bấm ok” đã nhận được 9.400 lượt thích và 1.700 bình luận khác nhau sau một ngày. Nhiều ý kiến ​​trái chiều về việc có nên khoe khoang thành tích học tập của trẻ trên mạng xã hội đã được cộng đồng giáo viên chia sẻ một cách cởi mở.

Tiến sĩ Nguyễn Đồng Lâm, Chủ tịch Hội Tâm lý Giáo dục Hà Nội cho rằng, sau một năm học tập chăm chỉ, điểm tốt của trẻ cần được ghi nhận và khen thưởng. Nhưng cha mẹ cần cân nhắc và hỏi ý kiến ​​của con cái khi đăng tải lên mạng xã hội. “Một đứa trẻ học tốt, chăm ngoan là niềm tự hào của bất kỳ ai. Khen thưởng cho một đứa trẻ là rất cần thiết, nhưng theo tôi, trẻ em nên được coi là lĩnh vực riêng tư của gia đình. Mạng xã hội là nơi thông tin có thể đến với tất cả mọi người. Có rất nhiều không lường trước được những rủi ro đôi khi đưa thông tin cá nhân lên mạng xã hội ”- TS Nguyễn Tùng Lâm.

Trên thực tế, việc đăng những lời chứng thực lên mạng xã hội gây rất nhiều áp lực cho trẻ em, ông Lim nói. Không chỉ thể hiện rằng con ngoan ngoãn, ham học mà còn là động lực để con tiếp tục học hành chăm chỉ và ngoan ngoãn. Vô hình trung, gây áp lực cho con cái. Vị chuyên gia chia sẻ, đôi khi cha mẹ kỳ vọng quá cao mà vô tình ép con cái phải nghe theo ý của người lớn.

Chị Nguyễn Thu Trang, ngụ tại quận Cầu Giấy, Hà Nội cho biết, hai năm trở lại đây, các con chị không còn thích về quê ngoại nhiều như trước. “Tôi phải mất một thời gian dài để hiểu lý do tại sao con trai tôi không muốn về quê, đó là nó không muốn đối mặt với kết quả năm nay. Nó có phải là học sinh giỏi hay không? Có vẻ như vấn đề đã nảy sinh. Sự lo lắng bình thường này hóa ra lại là một vấn đề đối với đứa trẻ. Mang lại áp lực nặng nề. Người con trai thừa nhận rằng mình đã “bỏ trốn” và không về quê chỉ để trốn tránh trả lời những câu hỏi như vậy ”, bà Dong cho biết. Không chỉ con chị mà nhiều trẻ khác cũng cảm thấy như vậy, phụ huynh này cho biết. “Con trai tôi nói với tôi rằng không chỉ cháu mà nhiều bạn trong lớp đều bị căng thẳng vì những vấn đề tương tự khi gặp người thân”, bà Trang nói.

Tiến sĩ Huang Yurong, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục nghề nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng, dù không ai nói thẳng ra nhưng thực ra có một ý kiến ​​ngầm hiểu rằng ngoài việc tự hào về điểm tốt của con mình, các bậc cha mẹ còn cũng có chút tự hào về bản thân. Bên cạnh những lời khen ngợi con được 9, 10 điểm thì cũng có rất nhiều bình luận khen ngợi bố mẹ nuôi dạy con ngoan khiến bố mẹ rất hài lòng.

khen đúng không?

Cô Đoàn Diệu Anh, giáo viên Trường THCS Giang Vũ (TP. Hà Nội) cho biết, về mặt tình cảm, việc khoe con trên Facebook là tích cực và thể hiện niềm tự hào của cha mẹ. Khen ngợi động viên là tốt, nhưng cách bạn đưa ra mới là điều quan trọng.

Khen ngợi quá nhiều có thể khiến trẻ trở nên kiêu ngạo và tạo thêm căng thẳng nếu không khen ngợi khả năng của trẻ, một chuyên gia giáo dục cho biết. Khen ngợi không phù hợp có thể dẫn đến áp lực “phải cho cha mẹ bằng được” thay vì nhiều em tự học. Khi điểm số không tốt như mong đợi, một loại áp lực khác được tạo ra khiến phụ huynh và trẻ em thất vọng.

Tuy nhiên, một giảng viên Trường ĐH Hưng Đức (tỉnh Thìn Hóa) cho rằng, bằng khen lừa đảo, không đăng thì xấu hổ, còn công sức của cả nhà thì không có gì sai cả. ẩn giấu. “Bố mẹ nào thích thì khoe, mình ủng hộ, không đăng thì mình đăng lên nếu không thích, mình tôn trọng cá tính của mọi người” – giảng viên chia sẻ. Quan điểm này được nhiều giáo viên ủng hộ.

Một giảng viên Đại học Hà Nội cho biết cô không đăng chứng nhận xuất sắc của con mình lên Facebook, dù con cô vẫn đạt giải ở các trường chuyên nghiệp. “Tính mình là vậy nhưng mình vẫn tôn trọng và chia sẻ niềm vui của những người làm cha mẹ đăng lên Facebook. Ai cũng có một niềm vui, một niềm hạnh phúc, muốn chia sẻ thì có thể chia sẻ cùng. Con cái vẫn là con nít nên phải động viên, khuyến khích, đừng quá khắt khe với các em ”- cô giáo nói.

Giúp con bạn nhận ra giá trị đích thực của việc học

TS Hoàng Ngọc Vinh cho biết kỳ vọng của con cái càng cao thì cha mẹ càng muốn con học. Điều này dẫn đến việc ngày càng có nhiều trẻ em đến các phòng khám để trị liệu tâm lý vì áp lực học hành từ gia đình. Tôi biết một số trẻ trước đây ngoan ngoãn và thích học, nhưng càng về sau càng không thích học. Cha mẹ càng tạo áp lực cho chúng, trẻ càng trở nên phản kháng, và một số sợ học, tách khỏi bố mẹ, rơi vào trầm cảm, thậm chí dẫn đến những hành vi tự hủy hoại bản thân. Xin đừng “đánh cắp” tuổi thơ của con mình vì những ham muốn của bản thân. Làm cho con bạn nhận thức được giá trị đích thực của việc học.

Yan Ying

Đồng Nai có mô hình trường học kiến ​​tạo đầu tiên

(ĐN) – Sáng 4-6, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thiện Hùng đã đến dự lễ tốt nghiệp Trường Mầm non-Tiểu học Xiu Kui (huyện Xinxie, TP.Biên Hòa) năm học 2021-2022. Đây là trường tư thục chất lượng cao sẽ bắt đầu hoạt động từ năm 2021 – Năm học 2022 bắt đầu hoạt động, trường thu hút 170 học sinh trong năm học đầu tiên.

Nguyễn Thiện Hùng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu tại Lễ tốt nghiệp Trường Mầm non-Tiểu học Shao Kui

Theo Ban giám hiệu Trường Mầm non-Tiểu học Sao Khuê, sau thời gian dài nghiên cứu các mô hình giáo dục tiên tiến của thế giới, nhà trường đã quyết định lựa chọn và thực hiện theo mô hình “Trường học kiến ​​tạo”. Đây là một mô hình từ môn thể thao dành cho trẻ em lớn nhất thế giới “Thiết kế để thay đổi”.

Mô hình này hiện đã có mặt tại hơn 100 quốc gia trên thế giới, là mô hình trường học kiến ​​tạo đầu tiên tại tỉnh Đồng Nai, được nhiều phụ huynh kỳ vọng sẽ giúp khơi dậy tiềm năng của con em mình, phát triển để con em họ tự tin và có động lực xác định hướng đi trong tương lai.

Học sinh Trường Mầm non-Tiểu học Sao Khuê tặng hoa Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thiện Hùng

Để có thể triển khai thành công mô hình trường học xây dựng, Trường Mầm non-Tiểu học Sao Khuê đã đầu tư cơ sở vật chất khang trang, nhà hiệu bộ, phòng chức năng, trang thiết bị dạy học hiện đại. Đồng thời, nhà trường đã hình thành được hệ thống nguồn nhân tài, với nhiều chuyên gia xuất sắc trong lĩnh vực giáo dục, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giàu kinh nghiệm, nhiệt tình, trách nhiệm và yêu nghề. Trong năm học đầu tiên, trường có hơn 170 trẻ em được cha mẹ tin tưởng, mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề bởi đợt bùng phát Covid-19 lần thứ tư.

Phát biểu tại buổi lễ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thiện Hùng đánh giá cao mô hình xây dựng của Trường Mầm non-Tiểu học Sao Khuê, cho rằng mô hình giáo dục mới này sẽ được các bậc phụ huynh đón nhận và gặt hái được nhiều thành công.

Phó chủ tịch UBND tỉnh tin tưởng nhà trường sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng trường học kiến ​​tạo và triết lý giáo dục học sinh là năng lực và nhân cách song hành. Phó chủ tịch UBND tỉnh cũng mong muốn nhà trường tiếp tục phát triển về mọi mặt, đào tạo ra thế hệ trẻ vừa tri thức, vừa kết nối, tạo được uy tín ngày càng rộng rãi trong phụ huynh và xã hội.

Các cháu Trường Mầm non – Tiểu học Sao Khuê nhận quà tại Lễ tổng kết

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thiện Hùng chia sẻ, tỉnh Đồng Nai đã và đang khuyến khích xã hội hóa trên nhiều lĩnh vực, nhất là giáo dục. Tỉnh luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư phát triển mô hình trường tư thục chất lượng cao như Trường Mầm non-Tiểu học Sao Khuê. Tỉnh ta sẽ luôn tạo mọi điều kiện để nhà trường không ngừng phát triển và lớn mạnh, góp phần vào việc ươm mầm và đào tạo nhân tài chất lượng cao của tỉnh ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Sự công bình

.

Đại học cần đa ngành đa lĩnh vực

Hội thảo Mô hình tổ chức và Hoạt động tại Đại học Việt Nam – Ảnh: VGP / Nhật Nam

Ngày 4/6, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) và Thường trực Ủy ban Văn hóa – Giáo dục Quốc hội Việt Nam tổ chức tọa đàm về tổ chức và hoạt động của các trường đại học Việt Nam tại Hòa Lạc.

Các đại biểu đã nghe và thảo luận về mô hình tổ chức và hoạt động của các trường đại học Việt Nam, đặc biệt là những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện Luật Tự chủ đại học.

Giám đốc ĐHQGHN Lê Quân cho biết tại hội thảo, từ năm 2013, ĐHQGHN được giao quyền tự chủ, tinh thần tự chịu trách nhiệm cao trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động, đã thực hiện tốt các quyền này, được chia thành 3 cấp quản lý: Cấp ĐHQGHN; các đơn vị thành viên cấp I, các đơn vị trực thuộc; các khoa, viện nghiên cứu, trung tâm và cơ sở tương đương trực thuộc các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc.

Các đơn vị thành viên trực thuộc ĐHQGHN tổ chức và hoạt động theo cơ chế độc lập, trách nhiệm cao, liên thông, liên kết rộng mở, phát huy lợi thế của chuyên ngành và quyền tự chủ của lĩnh vực, bảo đảm sự phối hợp công tác nghiên cứu khoa học và ĐHQGHN trong khuôn khổ của quản lý thống nhất.

Quản lý ở ĐHQGHN được thực hiện theo phương thức quản lý theo sản phẩm. Đồng thời, ĐHQGHN khuyến khích các trường đại học thành viên tham gia kiểm định của các tổ chức kiểm định danh tiếng quốc tế để tạo thuận lợi cho quá trình nâng cao chất lượng và hội nhập. Thông qua mô hình cụ thể, hai ĐHQGHN được hưởng quyền tự chủ cao về chuyên môn, nghiên cứu khoa học, tổ chức bộ máy, tài chính và tài sản.

Đại diện lãnh đạo ĐHQGHN cũng nêu một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các điều kiện tự chủ của ĐHQGHN.

Đó là thực hiện mô hình hội đồng đại học thành viên; xác định mức độ tự chủ của các trường đại học thành viên trong bản đồ tự chủ tổng thể của ĐHQGHN; phân loại tổ chức, cơ chế, chính sách điều kiện thành lập đơn vị sự nghiệp công lập do các đơn vị thành viên ĐHQGHN trực tiếp quản lý. các đơn vị trực thuộc.

Về cơ chế, chính sách và các quy định khác của pháp luật, việc thực hiện các mục tiêu, kế hoạch phát triển ở các giai đoạn của Dự án đầu tư xây dựng Đại học Quốc gia Hà Nội của Đại học Quốc gia Hà Nội gặp khó khăn, vướng mắc. và âm nhạc.

Cơ chế, chính sách ký kết hợp đồng lao động, bổ nhiệm người lao động đảm nhiệm một số chức vụ quản lý, lãnh đạo chuyên môn, nghiệp vụ đặc thù còn hạn chế, chưa hoàn thiện.

Cơ cấu tổ chức và quyền tự chủ về nhân sự của ĐHQGHN chưa được thể chế hóa bằng pháp luật.

Do đó, ĐHQGHN đề xuất và kiến ​​nghị Chính phủ trao quyền tự chủ cao hơn cho hai ĐHQGHN trong các nghị định, quy chế mới thay thế Nghị định số 186 và Quy chế số 26.

Ngoài ra, các nhà quản lý và chuyên gia giáo dục cũng đề xuất, kiến ​​nghị các cơ chế, giải pháp nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy trường phát triển đáp ứng nhiệm vụ được giao, từng bước khẳng định vị thế và uy tín của các trường đại học hàng đầu của Việt Nam, bước vào khu vực và cấp độ thế giới.

một phía nam

Tác động đến các cấp học sẽ được đánh giá kỹ lưỡng và đưa ra lộ trình tăng h ọc phí

Việc bố trí mức học phí và thời gian tăng học phí phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, chia sẻ khó khăn với quần chúng nhân dân, kết hợp khả năng đóng góp của quần chúng nhân dân.

Tại cuộc họp báo thường kỳ Chính phủ chiều nay (6/5), Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn cho biết, tại cuộc họp Chính phủ sáng nay, Bộ Giáo dục cũng được giao tiếp tục nghiên cứu, xây dựng lộ trình điều chỉnh. Đặc biệt, nghiên cứu toàn diện về tác động của việc tăng học phí đối với các đối tượng khác nhau, đặc biệt là sinh viên và gia đình đang gặp khó khăn. Trên cơ sở này, đề nghị chính phủ có những biện pháp hỗ trợ cần thiết.

Huang Mingshan, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, cho biết tại cuộc họp Chính phủ sáng nay, Bộ cũng được giao tiếp tục xây dựng lộ trình tăng học phí. Ảnh: VGP.

Thứ trưởng khẳng định cần đánh giá kỹ lưỡng tác động của các cấp học để đưa ra các khuyến nghị phù hợp, đồng thời nhấn mạnh Bộ Giáo dục cũng tiếp tục xây dựng các hướng dẫn để trong khuôn khổ này, các trường đại học trong nước và cơ sở có khả năng mức lương của từng vùng, từng người dân và nhu cầu của tổ chức dạy và học cần được điều chỉnh tùy theo hoàn cảnh cụ thể.

Trước đó, Ban tư vấn của Chính phủ đã ban hành Nghị định số 81 năm 2021 quy định khung học phí đối với các cơ sở giáo dục công lập từ năm 2021-2022.

“Thời điểm ban hành, tình hình dịch bệnh phức tạp hơn, Bộ Giáo dục đề xuất, giữ nguyên mức học phí năm học 2021-2022 bằng với năm học 2020-2021”, ông Tôn nói. .

Về khung học phí các năm học tiếp theo, đối với giáo dục phổ thông, khung học phí đến năm 2022 do Nghị định số 81 quy định.

Trong những năm tới, Hội đồng nhân dân địa phương quyết định mức học phí đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông hoặc cấp học áp dụng tại địa phương căn cứ vào tình hình cụ thể của điều kiện kinh tế – xã hội, tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng, đặc điểm của khu vực và khả năng đóng góp thực tế của quần chúng.

Thứ trưởng cho biết: “Mức này được quy định không quá 7,5% / năm.

Lãnh đạo Bộ GD & ĐT cũng cho biết, theo biểu học phí, dự kiến ​​đến năm 2025 sẽ tính đủ học phí ở bậc đại học, tính đủ học phí bậc mầm non và phổ thông. được tính theo công thức sau: Năm 2030. Thực hiện lâu dài Nghị quyết số 19 của Trung ương. Nghị định quy định phạm vi, giới hạn trên và dưới của học phí, và nơi quy định học phí theo mức học phí.

Thứ trưởng cũng nhấn mạnh, mặc dù dịch đã đến thời điểm bình thường trở lại nhưng kinh tế xã hội phục hồi sẽ còn rất lâu. Những nơi có nhiều gia đình có nhu cầu thì học phí do nơi đó thông báo. Tại các trường đại học, mức độ tự chủ tài chính khác nhau.

“Bộ Giáo dục đã có văn bản chấp thuận gửi các bộ, ngành, địa phương vào ngày 23/5, yêu cầu hướng dẫn các cơ sở giáo dục xác định mức học phí và lộ trình tăng học phí căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của vùng. Chia sẻ khó khăn với ., khả năng đóng góp của người dân ”, ông Tôn nói. Bộ Giáo dục cũng đã tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thu học phí của các cơ sở giáo dục để đảm bảo tuyệt đối không để xảy ra tình trạng lạm thu đầu năm học.

Theo Nghị định số 81, năm học 2022-2023, khung học phí đối với các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập chưa có khả năng chi thường xuyên được phân chia theo vùng. Cụ thể, học phí hàng tháng ở khu vực thành thị là 300-540.000 đồng / học sinh mầm non và tiểu học, học phí trung học cơ sở và trung học phổ thông là 300-650.000 đồng / học sinh. Ở khu vực nông thôn, mức học phí hàng tháng là 100-220.000 đồng / học sinh mầm non và tiểu học; học phí trung học cơ sở là 1-270.000 đồng / học sinh, trung học phổ thông là 200-330.000 đồng / học sinh. Mức học phí hàng tháng đối với dân tộc thiểu số và miền núi là 500.000-110.000 đồng / học sinh mầm non và tiểu học, học phí trung học cơ sở 500.000-170.000 đồng / học sinh;

Nếu tôi thay đổi lịch sử từ tự chọn sang bắt buộc, các khóa học có phải bắt đầu lại không?

Gần đây, dư luận đã lên tiếng và nhiều nhân vật có thẩm quyền cũng đứng ra can thiệp, trước đó, năm 2018, môn Lịch sử cấp THPT của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể sẽ trở thành môn học tự chọn.

Vì vậy, ngày 12/5, Bộ trưởng Bộ GD & ĐT Nguyễn Kim Sơn đã chủ trì cuộc họp làm việc để trưng cầu ý kiến ​​chuyên gia về tình hình thực hiện kế hoạch giáo dục phổ thông năm 2018 và bộ môn Lịch sử THPT.

Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh: “Đặc biệt trong việc dạy học môn Lịch sử ở cấp THPT, Bộ GD-ĐT sẽ xem xét các phương án sau trên cơ sở ý kiến ​​của các chuyên gia:“ Có phương án trong thời gian tới và lấy ý kiến. Các cơ quan có thẩm quyền”. [Đầu tiên]

Ngày 23/5, tại lễ khai mạc kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XV, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành khi báo cáo tình hình kinh tế – xã hội đã phát biểu: “Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ nghiên cứu, tiếp thu ý kiến ​​của các bên thì nhân dân, đại biểu Quốc hội sẽ quyết định, môn lịch sử là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông ”. [2]

Mới đây, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5 năm 2022 diễn ra ngày 4 tháng 6, Thủ tướng Phạm Minh Chín đề nghị có thể quy định theo hướng môn Lịch sử mới mở. Phần bắt buộc và phần không bắt buộc.

Người đứng đầu Chính phủ nhắc lại rằng văn hóa và truyền thống lịch sử cũng là một nguồn lực và đầu tư cho giáo dục văn hóa lịch sử là đầu tư cho phát triển. Đồng thời, Thủ tướng chỉ rõ, chủ trương liên quan đến lợi ích hợp pháp của toàn dân, của nhân dân và phải hết sức thận trọng, nghiên cứu, tính toán.

Cho đến ngày nay, số phận của lịch sử vẫn đang được tính toán.

Nếu lịch sử thay đổi từ tùy chọn thành bắt buộc, thì về cơ bản chúng ta phải quay lại từ đầu

(Hình minh họa trên Giaoduc.net.vn)

Lịch sử trung học có thể chuyển từ tự chọn sang bắt buộc không?

Về cơ sở pháp lý, Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2018 đã được Ban chỉ đạo cập nhật chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông tổng thể chính thức thông qua ngày 28/7/2017.

Tiếp đó, ngày 27/12/2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt phương án bộ môn, đây được coi là quy định để các đơn vị viết và phát hành sách giáo khoa làm cơ sở cho sách giáo khoa.

Nhưng rất tiếc, nhiều cấp chính quyền, chuyên gia và các tầng lớp nhân dân chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này vào thời điểm đó.

Chương trình học môn Lịch sử trong Kế hoạch giáo dục phổ thông năm 2018 được thiết kế theo hai giai đoạn (9 năm học cơ bản, từ lớp 1 đến lớp 9 và 3 năm học định hướng nghề nghiệp, từ lớp 10 đến lớp 9 lớp 12), với đường lối rất rõ ràng.

Trong giai đoạn giáo dục cơ bản, lịch sử là một môn học bắt buộc, trong khi trong giai đoạn giáo dục hướng nghiệp, lịch sử là một môn học tự chọn.

Giờ đây, nội dung môn lịch sử của chương trình giáo dục phổ thông mới đã được triển khai ở các lớp 1, lớp 2 tiểu học và lớp 6 trung học cơ sở. Sách giáo khoa lớp 3, lớp 7 được Bộ Giáo dục thông qua ngày 10/10, Bộ Giáo dục cũng đã có thông báo về việc tổ chức thẩm định sách giáo khoa lớp 8 và lớp 11.

Điều này có nghĩa là đến thời điểm này, các nhà xuất bản gần như đã làm xong sách giáo khoa của mình, và tất nhiên họ đã đầu tư rất nhiều vào việc viết các đầu sách liên quan đến nội dung. Bộ môn Lịch sử.

Nếu lúc này, chính sách môn sử đã trở thành một môn học bắt buộc, có lẽ không đơn giản như việc đổi từ “lựa chọn” thành “bắt buộc”.

Bởi, theo định vị của phương án giáo dục phổ thông mới năm 2018, môn lịch sử chỉ là “môn học bắt buộc” trong giai đoạn giáo dục cơ bản. Vì vậy những người biên soạn sách giáo khoa tính toán rằng học sinh phải mất 9 năm mới có thể thông thạo lịch sử.

Trong chương trình phổ thông, lịch sử là môn học tự chọn với tổng thời lượng là 315 tín chỉ, nội dung hệ thống hóa và củng cố những kiến ​​thức lịch sử phổ thông ở giai đoạn giáo dục cơ bản, đồng thời giúp học sinh khắc sâu những kiến ​​thức lịch sử trọng tâm thông qua các chuyên đề học tập và các chủ đề lịch sử thế giới. , Lịch sử Đông Nam Á và Lịch sử Việt Nam.

Vì vậy, nội dung lịch sử THPT là giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, và tất nhiên khối lượng kiến ​​thức nặng hơn, sâu hơn.

Vậy, nếu môn lịch sử trở thành môn học bắt buộc thì chương trình, chương trình tổng thể có cần sửa đổi hay không? Các sách giáo khoa như “Tự nhiên và Xã hội”, “Lịch sử và Địa lý” ở tiểu học và trung học cơ sở có cần sửa đổi cho phù hợp với trình độ học vấn cơ bản của học sinh không?

Giáo sư Ruan Mingxiu, Tổng chủ biên Đề án giáo dục phổ thông tổng thể năm 2018 khẳng định: “Việc thiết kế đề án được thực hiện công phu, nghiêm túc trên cơ sở chỉ đạo và các văn bản của Đảng, pháp luật quốc gia”. [3] Vì vậy, điều hết sức quan trọng đối với GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2018 là phải có thông tin cụ thể càng sớm càng tốt, nếu chuyển môn Lịch sử từ một môn học tự chọn thành môn học bắt buộc.

Không dễ để thay đổi chủ đề lịch sử từ “tùy chọn” thành “bắt buộc”

Theo quan điểm của tác giả, việc thay đổi lịch sử từ tùy chọn thành bắt buộc, tuy khó khăn và tốn kém nhưng vẫn có thể thực hiện được bằng một chính sách duy nhất. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu kỹ vấn đề.

Trước hết, việc thay đổi quy hoạch này là một chủ trương lớn của đảng và nhà nước, là quyết tâm của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Kết quả của ngày hôm nay không phải ngày một, ngày hai mà chen vào ba nhiệm kỳ cấp bộ – bắt đầu từ ngày kế hoạch mới bắt đầu.

Điều này có nghĩa là cơ sở pháp lý đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo thông qua, được bàn bạc và đồng thuận rộng rãi ở nhiều cấp, nhiều sở.

Thứ hai: Nếu chuyển môn lịch sử THPT từ tự chọn sang bắt buộc không có nghĩa là sẽ thực hiện ngay.

Trong khi đó, theo kế hoạch, chương trình học mới sẽ được triển khai ở lớp 3, lớp 7 và lớp 10 chỉ trong vài tháng nữa, vậy chương trình môn lịch sử có cần viết lại hay chỉ chỉnh sửa ở cấp THPT? lỏng lẻo?

Thứ ba, kế hoạch giáo dục phổ thông năm 2018 được chia thành hai giai đoạn giáo dục cụ thể, rõ ràng. Đó là “giai đoạn giáo dục cơ bản” và “giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp” nên vai trò và vị thế của mỗi giai đoạn giáo dục là khác nhau.

Tác giả cũng mong rằng Bộ GD & ĐT sẽ có thông báo cụ thể về đề Lịch sử THPT trong thời gian sớm nhất để các địa phương, nhà trường và học sinh nắm được trong thời gian sớm nhất.

tham khảo:

[1] https://giaduc.net.vn/Giao-duc-24h/bo-Giao-duc-se-can-nhac-y-kien-cua-cac-chuyen-gia-doi-voi-mon-lich -su-post226432.gd

[2] https://vtc.vn/chinh-phu-se-nghien-cuu-dua-lich-su-la-mon-hoc-bat-buoc-ar678405.html

[3] https://vietnamnet.vn/lich-su-thanh-mon-lua-chon-anh-huong-toi-Giao-duc-long-yeu-nuoc-tong-chu-bien-tra-loi-2010313 .html

Nguyên Nguyên

Nếu tôi thay đổi lịch sử từ tùy chọn sang bắt buộc, chương trình có phải bắt đầu l ại không?

Gần đây, dư luận đã lên tiếng và nhiều nhân vật có thẩm quyền cũng đứng ra can thiệp, trước đó, năm 2018, môn Lịch sử cấp THPT của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể sẽ trở thành môn học tự chọn.

Vì vậy, ngày 12/5, Bộ trưởng Bộ GD & ĐT Nguyễn Kim Sơn đã chủ trì cuộc họp làm việc để trưng cầu ý kiến ​​chuyên gia về tình hình thực hiện kế hoạch giáo dục phổ thông năm 2018 và bộ môn Lịch sử THPT.

Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh: “Đặc biệt trong việc dạy học môn Lịch sử ở cấp THPT, Bộ GD-ĐT sẽ xem xét các phương án sau trên cơ sở ý kiến ​​của các chuyên gia:“ Có phương án trong thời gian tới và lấy ý kiến. Các cơ quan có thẩm quyền”. [Đầu tiên]

Ngày 23/5, tại lễ khai mạc kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XV, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành khi báo cáo tình hình kinh tế – xã hội đã phát biểu: “Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ nghiên cứu, tiếp thu ý kiến ​​của các bên thì nhân dân, đại biểu Quốc hội sẽ quyết định, môn lịch sử là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông ”. [2]

Mới đây, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5 năm 2022 diễn ra ngày 4 tháng 6, Thủ tướng Phạm Minh Chín đề nghị có thể quy định theo hướng môn Lịch sử mới mở. Phần bắt buộc và phần không bắt buộc.

Người đứng đầu Chính phủ nhắc lại rằng văn hóa và truyền thống lịch sử cũng là một nguồn lực và đầu tư cho giáo dục văn hóa lịch sử là đầu tư cho phát triển. Đồng thời, Thủ tướng chỉ rõ, chủ trương liên quan đến lợi ích hợp pháp của toàn dân, của nhân dân và phải hết sức thận trọng, nghiên cứu, tính toán.

Cho đến ngày nay, số phận của lịch sử vẫn đang được tính toán.

(Hình minh họa trên Giaoduc.net.vn)

Lịch sử trung học có thể chuyển từ tự chọn sang bắt buộc không?

Về cơ sở pháp lý, Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2018 đã được Ban chỉ đạo cập nhật chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông tổng thể chính thức thông qua ngày 28/7/2017.

Tiếp đó, ngày 27/12/2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt phương án bộ môn, đây được coi là quy định để các đơn vị viết và phát hành sách giáo khoa làm cơ sở cho sách giáo khoa.

Nhưng rất tiếc, nhiều cấp chính quyền, chuyên gia và các tầng lớp nhân dân chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này vào thời điểm đó.

Chương trình học môn Lịch sử trong Kế hoạch giáo dục phổ thông năm 2018 được thiết kế theo hai giai đoạn (9 năm học cơ bản, từ lớp 1 đến lớp 9 và 3 năm học định hướng nghề nghiệp, từ lớp 10 đến lớp 9 lớp 12), với đường lối rất rõ ràng.

Trong giai đoạn giáo dục cơ bản, lịch sử là một môn học bắt buộc, trong khi trong giai đoạn giáo dục hướng nghiệp, lịch sử là một môn học tự chọn.

Giờ đây, nội dung môn lịch sử của chương trình giáo dục phổ thông mới đã được triển khai ở các lớp 1, lớp 2 tiểu học và lớp 6 trung học cơ sở. Sách giáo khoa lớp 3, lớp 7 được Bộ Giáo dục thông qua ngày 10/10, Bộ Giáo dục cũng đã có thông báo về việc tổ chức thẩm định sách giáo khoa lớp 8 và lớp 11.

Điều này có nghĩa là đến thời điểm này, các nhà xuất bản gần như đã làm xong sách giáo khoa của mình, và tất nhiên họ đã đầu tư rất nhiều vào việc viết các đầu sách liên quan đến nội dung. Bộ môn Lịch sử.

Nếu lúc này, chính sách môn sử đã trở thành một môn học bắt buộc, có lẽ không đơn giản như việc đổi từ “lựa chọn” thành “bắt buộc”.

Bởi, theo định vị của phương án giáo dục phổ thông mới năm 2018, môn lịch sử chỉ là “môn học bắt buộc” trong giai đoạn giáo dục cơ bản. Vì vậy những người biên soạn sách giáo khoa tính toán rằng học sinh phải mất 9 năm mới có thể thông thạo lịch sử.

Trong chương trình phổ thông, lịch sử là môn học tự chọn với tổng thời lượng là 315 tín chỉ, nội dung hệ thống hóa và củng cố những kiến ​​thức lịch sử phổ thông ở giai đoạn giáo dục cơ bản, đồng thời giúp học sinh khắc sâu những kiến ​​thức lịch sử trọng tâm thông qua các chuyên đề học tập và các chủ đề lịch sử thế giới. , Lịch sử Đông Nam Á và Lịch sử Việt Nam.

Vì vậy, nội dung lịch sử THPT là giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, và tất nhiên khối lượng kiến ​​thức nặng hơn, sâu hơn.

Vậy, nếu môn lịch sử trở thành môn học bắt buộc thì chương trình, chương trình tổng thể có cần sửa đổi hay không? Các sách giáo khoa như “Tự nhiên và Xã hội”, “Lịch sử và Địa lý” ở tiểu học và trung học cơ sở có cần sửa đổi cho phù hợp với trình độ học vấn cơ bản của học sinh không?

Giáo sư Ruan Mingxiu, Tổng chủ biên Đề án giáo dục phổ thông tổng thể năm 2018 khẳng định: “Việc thiết kế đề án được thực hiện công phu, nghiêm túc trên cơ sở chỉ đạo và các văn bản của Đảng, pháp luật quốc gia”. [3] Vì vậy, điều hết sức quan trọng đối với GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2018 là phải có thông tin cụ thể càng sớm càng tốt, nếu chuyển môn Lịch sử từ một môn học tự chọn thành môn học bắt buộc.

Không dễ để thay đổi chủ đề lịch sử từ “tùy chọn” thành “bắt buộc”

Theo quan điểm của tác giả, việc thay đổi lịch sử từ tùy chọn thành bắt buộc, tuy khó khăn và tốn kém nhưng vẫn có thể thực hiện được bằng một chính sách duy nhất. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu kỹ vấn đề.

Trước hết, việc thay đổi quy hoạch này là một chủ trương lớn của đảng và nhà nước, là quyết tâm của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Kết quả của ngày hôm nay không phải ngày một, ngày hai mà chen vào ba nhiệm kỳ cấp bộ – bắt đầu từ ngày kế hoạch mới bắt đầu.

Điều này có nghĩa là cơ sở pháp lý đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo thông qua, được bàn bạc và đồng thuận rộng rãi ở nhiều cấp, nhiều sở.

Thứ hai: Nếu chuyển môn lịch sử THPT từ tự chọn sang bắt buộc không có nghĩa là sẽ thực hiện ngay.

Trong khi đó, theo kế hoạch, chương trình học mới sẽ được triển khai ở lớp 3, lớp 7 và lớp 10 chỉ trong vài tháng nữa, vậy chương trình môn lịch sử có cần viết lại hay chỉ chỉnh sửa ở cấp THPT? lỏng lẻo?

Thứ ba, kế hoạch giáo dục phổ thông năm 2018 được chia thành hai giai đoạn giáo dục cụ thể, rõ ràng. Đó là “giai đoạn giáo dục cơ bản” và “giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp” nên vai trò và vị thế của mỗi giai đoạn giáo dục là khác nhau.

Tác giả cũng mong rằng Bộ GD & ĐT sẽ có thông báo cụ thể về đề Lịch sử THPT trong thời gian sớm nhất để các địa phương, nhà trường và học sinh nắm được trong thời gian sớm nhất.

tham khảo:

[1] https://ift.tt/fDpImgG

[2] https://ift.tt/Lilpmf7

[3] https://ift.tt/hifeoHq

Nguyên Nguyên

Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin lấy ý kiến ​​về việc sửa đổi Văn bản số 0 1

Kể từ khi Thông tư số 20-23 / 2015 / TTLT-BNV-BGDĐT có hiệu lực, giáo viên cả nước bắt đầu khổ sở, vất vả, tốn tiền cho cái gọi là “chứng chỉ chức danh nghề nghiệp”.

Mỗi loại chức danh nghề nghiệp phải có một chứng chỉ khác nhau, thăng hạng I, II, III phải có chứng chỉ chức danh nghề nghiệp, như vậy mỗi giáo viên có thể “ẵm” tới 3 chứng chỉ chức danh nghề nghiệp.

Chứng chỉ chức danh nghề nghiệp là “gánh nặng” về kinh tế và tinh thần của mỗi giáo viên, kéo theo nhiều hệ lụy cho xã hội.

Những tưởng Bộ GD-ĐT sẽ giúp giáo viên “trút bỏ” “hành trang” trong Thông tư 01-04, nhưng nó vẫn tồn tại, và còn vô số bất cập khác.

Ngày 18 tháng 10 năm 2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 89/2021 / NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 101/2017 / NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và Công chức.

Điều 18 khoản 3 Nghị định 89/2021 / NĐ-CP quy định “3. Viên chức phải hoàn thành các khóa đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức thì mới được bổ nhiệm chức danh …” [Ngày thứ nhất]

Do đó, kể từ ngày 10/12/2021, giáo viên chỉ được giữ một chứng chỉ chức danh nghề nghiệp duy nhất, thay thế cho tất cả các chứng chỉ chức danh nghề nghiệp hạng I, II, III trước đây.

Chính phủ ban hành Lệnh số 89/2021 / NĐ-CP, giáo viên cả nước phấn khởi nhưng vẫn còn đó một nỗi lo, đó là: Giáo viên có cần chứng nhận chức danh nghề nghiệp hạng nhất, hạng nhì, hạng ba không? chứng chỉ? Chức danh viên chức chuyên nghiệp?

Sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành “Dự thảo Thông tư” sửa đổi, bổ sung một số quy định tại các Thông tư số 01/2021 / TT-BGDĐT, 02/2021 / TT-BGDĐT và 03/2021 / TT-BGDĐT, mối quan tâm này đã được dỡ bỏ hoàn toàn. , 04/2021 / TT-BGDĐT.

Điều 2, Điều 5 Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư 01/2021 / TT-BGDĐT, 02/2021 / TT-BGDĐT, 03/2021 / TT-BGDĐT, 04/2021 / TT-BGDĐT Quy định: Thực hiện Điều kiện

2. Trước thời điểm chương trình có hiệu lực, chứng chỉ bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên hạng I, II, III được cấp hợp pháp phù hợp với tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp thay thế. Năng lực được xác định tương đương với chứng chỉ bồi dưỡng dựa trên tiêu chuẩn chức danh của cấp học tương ứng (người hướng dẫn có thể sử dụng một trong các chứng chỉ Loại I, Loại II và Loại III hiện có để xác định mức độ tương đương). [1]

Do đó, giáo viên có thể sử dụng một trong các chứng chỉ hạng nhất, hạng hai, hạng ba hiện có để thay thế cho chứng chỉ chức danh nghề nghiệp viên chức.

Thực tế, sau khi Nghị định số 89/2021 / NĐ-CP ngày 18/10/2021 có hiệu lực, để đảm bảo điểm số, giáo viên vẫn phải nộp chứng chỉ chức danh nghề nghiệp khi thực hiện đồng loạt các thông báo số 01-04; giáo viên vẫn phải trả lệ phí cấp chứng chỉ chức danh nghề nghiệp.

Sửa đổi, bổ sung các Thông tư 01/2021 / TT-BGDĐT, 02/2021 / TT-BGDĐT, 03/2021 / TT-BGDĐT, 04/2021 / TT-BGDĐT: I, II Các chứng chỉ bồi dưỡng giáo viên hạng I và III các bậc theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp đã được ban hành theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật trước khi bắt đầu chương trình đào tạo. Ngày có hiệu lực (10/12/2021 – đối với tác giả), chứng chỉ bồi dưỡng tương đương được xác định theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của học vị tương ứng.

Vì vậy, kể từ ngày 10/12/2021, ngày Nghị định số 89/2021 / NĐ-CP ban hành, việc cấp chứng chỉ bồi dưỡng giáo viên theo tiêu chuẩn chức danh giáo viên I, II, III có hiệu lực thi hành. dù đã có chứng chỉ chức danh nghề nghiệp thì vẫn phải học chứng chỉ chức danh nghề nghiệp ngạch viên chức chuyên ngành.

Rõ ràng, có một số giáo viên bị bỏ rơi, thiếu công bằng khi thực hiện thông báo sửa đổi, bổ sung một số quy định của số 01/2021 / TT-BGDĐT, 02/2021 / TT-BGDĐT, 03/2021 / TT-BGDĐT, 04 / 2021 / TT-BGDĐT theo dự thảo.

Vì vậy, để đảm bảo tính nhân văn và công bằng, tác giả đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi Điều 2, Khoản 5 của dự thảo Thông tư để sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư 01/2021 / TT-BGDĐT, 02 /. 2021 / TT-BGDĐT, 03/2021 / TT-BGDĐT, 04/2021 / TT-BGDĐT như sau:

2. Chứng chỉ bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên hạng nhất, hạng nhì, hạng ba đã được cấp hợp pháp trước khi thực hiện thông báo này được công nhận là tương đương. Chứng chỉ bồi dưỡng được căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của học vị tương ứng (giáo viên có thể sử dụng một trong các loại chứng chỉ một, hai và ba hiện có để xác định mức độ tương đương).

Việc công nhận chứng chỉ chức danh nghề nghiệp được cấp sau ngày Nghị định số 89/2021 / NĐ-CP có hiệu lực thi hành là không trái luật mà đảm bảo tính công bằng, nhân văn và gắn với thực tiễn của văn bản. Pháp luật để đảm bảo không có giáo viên nào bị bỏ sót.

Vì vậy, xin đừng bỏ qua những giáo viên bị mất tiền sau ngày Nghị định 89/2021 / NĐ-CP có hiệu lực.

tham khảo:

– Các thông báo 20, 21, 22, 23/2015 / TTLT-BNV-BGDĐT

– Thông báo số 01, 02, 03, 04/2021 / TT-BGDĐT

[1] https://moet.gov.vn/van-ban/vbdt/Pages/chi-tiet-van-ban.aspx?ItemID=1585

(*) Văn phong và nội dung của bài viết phản ánh quan điểm và chính kiến ​​của tác giả.