Thời gian gần đây, dư luận và các chuyên gia giáo dục quan tâm đến vấn đề chữ P không được dạy riêng trong bộ sách “Kết nối tri thức và cuộc sống” của Báo Giáo dục Việt Nam.
Trả lời báo chí trước những băn khoăn của dư luận, PGS Bùi Mạnh Hùng, Bộ SGK Tiếng Việt 1, Bộ Kết nối tri thức và Cuộc sống khẳng định, Tổng chủ biên và Tổng chủ biên Bảng chữ cái trong SGK Tiếng Việt 1 theo Bộ Giáo dục và Luyện tập (trang 12, tập 1), bộ Nối gồm tất cả 29 chữ cái.
hình minh họa.
PGS.TS Bùi Mạnh Hùng khẳng định, SGK Tiếng Việt 1, bộ nối dạy chữ P (chữ pê), phát âm đầu và cuối P (pô) (viết bằng chữ P). Tất cả những điều này đã được giảng dạy trong nhiều năm qua theo phương thức quen thuộc với các giáo viên Việt Nam lớp một trên cả nước.
Tuy nhiên, theo nhiều giáo viên lớp 1, bộ sách Kết nối tri thức và cuộc sống được biên soạn để dạy một số chữ cái như: P, Â, Â. Thực tế, giáo viên chỉ cần giới thiệu cho học sinh cách nhận biết các chữ cái, cách đọc, cách viết và ghép nối với các chữ cái khác. Hầu hết giáo viên cho rằng nếu chữ P cách nhau một câu thì học sinh sẽ học cẩn thận và chắc chắn hơn.
Cô Nguyễn Thị Thủy, giáo viên một trường Tiểu học ở Chương Mỹ, Hà Nội cho biết, sách học chữ P nhiều nhưng trong bộ sách “Kết nối tri thức và cuộc sống”, tôi chỉ dạy một lần. Trong cuốn sách này, chữ P có trong bảng chữ cái, nhưng về nội dung, người ta chỉ dạy rằng nó được kết hợp với chữ H để tạo thành chữ Ph.
“Trong bộ sách này, chữ P viết rất hay, giáo viên phải tự mày mò, mở rộng mới dạy được. Nếu chỉ học bảng chữ cái thì không nên học chữ P một mình. Khi trẻ gặp chữ cái này, chúng Cần bính âm để đọc. Nhầm lẫn. Chữ P trong các cuốn sách trước được dạy chuyên sâu hơn để giúp học sinh phát âm chuẩn hơn và luyện đọc, viết và ghép nối phát âm cẩn thận hơn. Đối với lớp một, không chỉ là chữ cái mà còn cần được dạy để khi bắt gặp các từ khác, các em có thể ghép lại để đọc và hiểu ”, cô Thủy nói.
Với 20 năm kinh nghiệm giảng dạy lớp 1 và tiếp xúc với nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau, cô Thủy cho rằng bộ sách Kết nối tri thức và cuộc sống khá “nặng”, học sinh cần học nhiều sẽ có bài tới. 4,5 từ.
Cô Phạm Thị Vi, giáo viên lớp 1 một trường tiểu học ở Long Biên, Hà Nội, hiện đang dạy học sinh ghép vần của chữ P và âm Ph. Trên thực tế, để ghi nhớ cách phát âm của P và Ph, cô Vi và nhiều đồng nghiệp khác có kinh nghiệm giảng dạy đã yêu cầu học sinh tự tìm từ biểu thị các từ trên, đồng thời đưa thêm ví dụ về cách phát âm của P và Ph. Khi luyện viết, giáo viên cũng hướng dẫn học sinh viết chữ P trước, sau đó thêm chữ H để thành chữ Ph …
Bà Phạm Thị Vi cho biết các phương pháp dạy học trên đều dựa trên kinh nghiệm, không phải hướng dẫn hay tập huấn theo sách giáo khoa. Để học sinh ghi nhớ và mở rộng vốn từ, giáo viên thường yêu cầu các em ôn lại những gì đã học trong tiết học thứ hai trong ngày.
Cô Nguyễn Thị Hương, giáo viên đến từ Haiyang, cho rằng bộ sách “Kết nối tri thức và cuộc sống” nên bổ sung thêm các cách phát âm, từ xuất hiện độc lập trong ngữ liệu có âm P, mở rộng cho học sinh. Nếu dạy theo sách, theo hướng dẫn trong sách của giáo viên, hoặc chỉ dạy chữ P thì học sinh khi gặp âm và chữ này trong cuộc sống, các em sẽ chỉ biết thuộc các từ trong sách, và các em sẽ bị nhầm lẫn. .
Trước đó, PGS Bùi Mạnh Hùng, chủ biên kiêm tổng chủ biên sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tại Bộ Kết nối tri thức và cuộc sống cho biết, bộ sách có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau.
Cách đầu tiên là dạy âm đầu tiên P (falsetto) và âm PH (falsetto) trong lớp. Trước khi học âm PH, hãy huấn luyện học sinh đọc âm P, không đọc âm P đơn lẻ và không sử dụng một từ ứng dụng âm P đầu tiên.
Phương pháp thứ hai là dạy âm P riêng biệt và giới thiệu các “từ ứng dụng” như piano / piano, piano / panel, v.v., để học viên có thể học đọc và phát triển vốn từ vựng.
Giải thích về việc lựa chọn phương pháp dạy đầu tiên, chủ biên kiêm chủ biên SGK Tiếng Việt 1 Kết nối tri thức và cuộc sống cho biết, cả âm P và PH đều được học trong phần Âm, khoảng một tuần. vào tuần thứ 5 hoặc thứ 6 của lớp 1. Nếu chỉ dạy âm P thì cần có những “từ ngữ ứng dụng” để học sinh học đọc và phát triển vốn từ vựng. Những từ này chỉ chứa các âm tiết mở, có nghĩa là không thể sử dụng các từ như piano / piano, panorama / panel, v.v., chẳng hạn như sapa, nampi, v.v., vì hai lý do. Thứ nhất, học sinh chưa được học âm S (ở Sa Pa) và vần (ở Nậm Pì).
Thứ hai, tên riêng thường không được sử dụng trong việc dạy phát triển vốn từ vựng. Chỉ sau 5-6 tuần học, học viên phải đọc và hiểu nghĩa của các từ như piano / piano, panel / panel, v.v. Không phù hợp. Chắc hẳn rất nhiều người sợ hãi vì học sinh lớp 1, chỉ vài tuần nữa là đến trường, phải đọc, viết và hiểu nghĩa của những từ xa lạ này.