Khi hỏi về chương trình học lớp 6 tại các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, tôi nghĩ một điều có thể khiến hầu hết các bậc phụ huynh ngạc nhiên.
Nhiều người có xu hướng nghĩ rằng du học dễ dàng và ít áp lực hơn, nhưng trên thực tế, Úc có số lượng khóa học gần như gấp đôi Việt Nam. Một ví dụ cụ thể là toán học. Tôi trích ra 48 kỹ năng, trong đó có 11 kỹ năng bổ sung được phát triển từ lớp Năm, dựa trên hướng dẫn kiểm tra của Bộ Giáo dục và sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 6 mới. Tuy nhiên, Chương trình Khung của Queensland (tương đương với 11 kỹ năng được phát triển trong Lớp 5 từ các tiểu bang khác) bao gồm tới 89 kỹ năng, 15 trong số đó được phát triển thêm từ Lớp 5 trở đi.
Nghịch lý này thực ra khá hợp lý. Giáo dục phổ thông cung cấp kiến thức cho hành trang vào đời. Cuộc sống hiện đại càng phức tạp thì con người càng phải giải quyết nhiều vấn đề và do đó, họ càng phải có nhiều kỹ năng hơn. Nếu nhìn vào sự khác biệt giữa hai chương trình, không khó để nhận thấy rằng các kỹ năng của Việt Nam chủ yếu tập trung vào giải các bài toán, chẳng hạn như các phép toán về phân số. Tuy nhiên, các khóa học của Úc cũng bao gồm các kỹ năng giải quyết vấn đề cụ thể, chẳng hạn như trao đổi tiền tệ. Về nguyên tắc, nếu bạn biết cách tính toán với phân số, bạn có thể đổi ra tiền, nhưng về lý thuyết sư phạm, đây có thể là điểm khác biệt chính tạo ra căng thẳng trong học tập.
Trước hết, có thể dễ dàng nhận thấy rằng học không liên quan gì đến thực hành, khiến người học không hiểu tại sao lại muốn học, giống như một cái máy lặp đi lặp lại các kỹ năng. Trẻ mất hứng thú và đến trường với tâm thế nặng nề, tiêu cực. Ngược lại, nếu được hướng dẫn vận dụng lý thuyết vào cuộc sống, trẻ cảm thấy tự tin và ham học hỏi, muốn đến trường để học thêm những điều bổ ích, những chân trời mới.
Yếu tố thứ hai, có lẽ đã được công nhận, là ít kỹ năng hơn dẫn đến nhiều bài kiểm tra chuyên sâu hơn, tập trung nhiều hơn vào mức độ thành thạo. Điều này gây nhiều áp lực cho học sinh Việt Nam. Theo lý thuyết sư phạm, để đạt được 95% thành thạo kỹ năng cần nỗ lực gấp 4 lần so với để đạt được 70%. Học ở Việt Nam thì ít nhưng sinh viên phải “cày” nhiều hơn, nhất là những bạn không biết mình để làm gì. Đồng thời, Australia tập trung vào các vấn đề hiểu biết và áp dụng. Đề thi không có đường vòng, biết / hiểu là khả thi, học không phải “cưỡi ngựa xem hoa” mà phải có ứng dụng cụ thể. Vì vậy, học tập ở Úc rộng hơn, nhưng ít căng thẳng hơn và nhiều niềm vui hơn.
Điều thứ ba, có lẽ ít người nhận ra hoặc mặc nhiên là thiếu yêu cầu làm việc nhóm. Do tính chất chuyên sâu nên việc học và thi hầu hết các môn là chuyện cá nhân. Học là tự học, thi ai cũng tự đánh giá. Thậm chí một số môn thể thao đòi hỏi sự phối hợp, như bóng rổ, được thực hiện bởi mỗi người ném bóng vào rổ.
Tâm lý chung của trẻ em là sợ ở một mình, một mình đối mặt với các vấn đề, không có người hỗ trợ. Quá trình này kéo dài có thể dẫn đến trầm cảm. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ học sinh Nhật Bản và Hàn Quốc tự tử cao. Thật đáng thất vọng khi những quốc gia này ủng hộ độc lập và cho rằng họ không thể làm được. Nền giáo dục Úc mang đến cho sinh viên quyền ra quyết định lớn và ủng hộ quyền tự chủ, nhưng cũng nhấn mạnh sự tương tác. Điều này dạy cho bọn trẻ biết rằng miễn là mọi người đều có giá trị và đóng góp thích hợp vào sự phát triển của đội, thì việc có đồng đội và phụ thuộc vào họ ở một thời điểm nào đó về lâu dài sẽ không có hại gì.
Vì vậy, để không tạo áp lực cho bản thân, cần có lời giải thích hợp lý cho 3 câu hỏi trên. Thứ nhất, các chương trình giáo dục ở Việt Nam có thể xem xét tăng khía cạnh ứng dụng và giảm khía cạnh học thuật. Đây là điều mà Bộ Giáo dục đang làm, nhưng còn lâu mới đạt yêu cầu. Điều thứ hai cần xem xét là hạ thấp yêu cầu về thành thạo kỹ năng. Dù có câu “nhất tài, nhì sắc” nhưng giáo dục phổ thông không nhằm mục đích ươm mầm học sinh giỏi. Kỹ năng công việc, giải quyết vấn đề sẽ có giá trị hơn việc thuần thục nhiều kỹ năng tính nhẩm. Thứ ba, đối với một số môn học hoặc nội dung không trọng tâm, đặc biệt là ở cấp độ 2 và 3, thang điểm mười nên chuyển thành đánh giá đạt / không đạt. Một mặt giúp giảm áp lực đạt điểm cao nhất, mặt khác tạo điều kiện cho việc áp dụng nội dung đánh giá tập thể.
Tóm lại, việc học ở Việt Nam rất nặng nề vì chúng ta (cả nhà trường và gia đình) đều tăng áp lực làm chủ bản thân, nhất là khi vướng vào những việc không đáng có.
Ngoài đặc điểm nghề nghiệp, ít người cần giải phương trình bậc ba, so sánh tính chất hóa học của kim loại hoặc đọc thuộc lòng bài thơ của Bá Xuân Thanh Tuyền trong công việc. Vậy tại sao những đứa trẻ phải nói những câu thần chú hoặc tụng kinh tất cả những điều này?
Tô Thức