Khó khăn và thuận lợi đan xen
Trực tiếp đào tạo thí điểm với Cộng hòa Liên bang Đức, TS Đồng Văn Ngọc, Trưởng Viện Cơ điện tử Hà Nội cho biết: Phương pháp giáo dục nghề nghiệp ở các nước phát triển như Cộng hòa Liên bang Đức và Australia là kỷ nguyên đào tạo kỹ năng cho người học, chiếm 70 -80%. Người học phải học trong doanh nghiệp. Có nghĩa là, trước khi các lớp học bắt đầu, các cơ sở / trường đào tạo được ủy quyền phải ký hợp đồng với các doanh nghiệp đủ điều kiện và được các chuyên gia ở các nước kiểm định lại, điều này sẽ cho phép các trường này tiếp tục phối hợp nếu đủ điều kiện.
Một người tốt nghiệp THPT chưa phải là người giỏi, người xuất sắc, về lý thuyết sẽ có nhiều ý kiến cho rằng chất lượng không thể đạt được khi tham gia chương trình quốc tế của cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Các chương trình học từ Úc hoặc Cộng hòa Liên bang Đức, nơi mà độ dài của kiến thức lý thuyết liên quan chặt chẽ đến kỹ năng. Sau khi học lý thuyết, học viên sẽ phải thực hành các kỹ năng của phần đó (đào tạo theo mô đun). Khác với hình thức đào tạo lý thuyết hàn lâm, phương thức đào tạo này không yêu cầu người học thật giỏi, chỉ cần người yêu nghề, học lực bình thường trở lên. Đây là ưu điểm của phương pháp đào tạo chuyển giao ở các nước phát triển – TS Đồng Văn Ngọc dẫn lời.
Đồng tình với nhận định trên, Tiến sĩ Wu Xuanhong, Vụ trưởng Vụ Đào tạo chính quy, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp khẳng định, lợi thế của chuyển giao công nghệ này là nhiều mặt. Thuận lợi đầu tiên là chính sách của Đảng và Nhà nước đã rất đầy đủ, rõ ràng, đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế, nhất là khi chuyển giao các dự án từ nước ngoài, hệ thống pháp luật cũng đang dần được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế hiện nay. , và các quy định mới cần được bổ sung để trong tương lai Có thể triển khai và nhân rộng. Ngoài ra, khi tham gia các chương trình chuyển giao theo chuẩn quốc tế, Việt Nam có ngay bộ chương trình đạt chuẩn quốc tế: đây là chương trình của Việt Nam, được đào tạo tại Việt Nam nhưng được quốc tế công nhận. thừa nhận, thừa nhận. Đồng thời, Việt Nam có đội ngũ giáo viên chất lượng đạt chuẩn quốc tế, hình thành đội ngũ trường học chất lượng cao. Việt Nam hiện có 25 trường tiêu chuẩn Úc dạy 12 nghề và 45 trường tiêu chuẩn Đức dạy 22 nghề. Người học các chương trình này tốt nghiệp với hai bằng: bằng Việt Nam và bằng quốc tế. Đây là một lợi thế lớn cho việc di chuyển các dự án từ nước ngoài đến gần với các tiêu chuẩn quốc tế.
Tiến sĩ Wu Xuanhong cũng chỉ ra: Giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp đã có mô hình đào tạo từ nước ngoài tiệm cận với chuẩn quốc tế, nhưng việc chuyển giao chương trình đào tạo này chưa có tiền lệ. Đây là khó khăn thứ nhất, do chưa có tiền lệ nên trong các quy định của pháp luật chưa có nội dung này, dẫn đến quá trình triển khai trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn.
Khó khăn tiếp theo là các quy định khắt khe của quốc tế, yêu cầu về năng lực đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị, cơ sở vật chất… phải đáp ứng theo tiêu chuẩn của nước chuyển giao. Vì vậy, Tổng cục GDNN và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp gặp khó khăn trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên. Ngoài ra, người học cũng là một khó khăn. Theo cách đánh giá phổ biến hiện nay, người không đạt trình độ đại học hoặc không có học lực vào học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nhưng phải có bằng khá trở lên mới được đào tạo theo chương trình này. Vì sau khi học xong, trình độ ngoại ngữ của họ đã tương đương B1 hoặc B2. Nghĩa là, ngoài kỹ năng nghề nghiệp đạt chuẩn quốc tế, trình độ ngoại ngữ đòi hỏi sinh viên phải cư xử như sinh viên quốc tế, giống như đi du học.
Xây dựng cơ chế hợp tác và điều phối lợi ích
Tổng hợp kinh nghiệm đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, Tiến sĩ Dong Wenyu đề nghị về cơ chế, chính sách cần có cơ chế khuyến khích, hạn chế để doanh nghiệp tham gia sâu, rộng vào đào tạo nhân lực giáo dục nghề nghiệp. Bởi vì, trên thực tế, hiện nay đã có chính sách thuế, có quy định doanh nghiệp phải nộp thuế cho nhà nước để phân chia lại số thuế doanh nghiệp đã nộp cho toàn bộ hệ thống giáo dục. Mỗi ngày, mỗi tháng, hàng trăm doanh nghiệp mới xuất hiện. Hầu hết các doanh nghiệp này đều thừa hưởng nguồn nhân lực đã qua đào tạo, nhưng lại đặt ra vấn đề phải đào tạo lại người lao động ngay sau khi tuyển dụng. Mấu chốt ở đây là doanh nghiệp không tham gia vào các cơ sở giáo dục cũng như chương trình học tập của sinh viên. Đồng thời, các cơ sở đào tạo không liên kết, không hướng đến việc cung cấp nguồn nhân lực cho việc làm của doanh nghiệp, sẽ chỉ tập trung đào tạo những gì họ có, hơn là đào tạo những gì công ty, người lao động và xã hội cần.
Để tháo gỡ khó khăn của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, TS Dong Wenyu cho rằng cần có cơ chế, chính sách ràng buộc, thúc đẩy doanh nghiệp hiểu rằng họ phải đóng góp cho đất nước, và đất nước cần phải đóng góp. Có các khoản chi ngân sách để điều phối các hoạt động giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực nhằm cung cấp nguồn lực cho lực lượng lao động xã hội. Doanh nghiệp đóng góp thì sự gắn kết và tham gia của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ cao hơn. Câu chuyện cần nói ở đây là cần phải làm rõ đối với doanh nghiệp và nâng cao hoạt động xã hội để đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp.
Ở góc độ quản lý quốc gia, Tiến sĩ Wu Xuanhong cho biết, Tổng cục Giáo dục và Đào tạo hiện đang có kiến nghị với lãnh đạo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Chính phủ để xây dựng hướng dẫn thực hiện công tác đào tạo. Được tạo ra theo Chương trình Quốc tế. Sau khi thí điểm thành công, nội dung và các phương án sẽ được xem xét, đánh giá và triển khai rộng rãi. Vì vậy, trong giai đoạn tới, Tổng cục Giáo dục sẽ tiếp tục có ý kiến chỉ đạo để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp triển khai trong hệ thống.
Cũng liên quan đến công tác đào tạo nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế, theo Tổng cục Giáo dục, Bộ LĐ-TB & XH đang xúc tiến chủ trương thành lập Trung tâm Dạy nghề và Thực hành nghề quốc gia. Dự kiến tại 3 miền. Các trung tâm được thành lập trên cơ sở đầu tư cơ cấu lại 3 trường cao đẳng của Bộ gồm: Phân viện Công nghệ Hà Nội, Phân viện Công nghệ Dung Quất (Quảng Ngãi), Phân viện Công nghệ 2 (Thành phố Hồ Chí Minh).
Các trung tâm này nằm trong mạng lưới các trường đại học chất lượng cao, đi đầu trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp; đổi mới công nghệ và kỹ thuật số, thúc đẩy sự sáng tạo, đi đầu trong việc thiết kế và cung cấp các khóa học mới.
Về mục tiêu cụ thể, đến năm 2025, Việt Nam hình thành 3 trung tâm dạy nghề và thực hành nghề chất lượng cao quốc gia, đồng thời có 70 trường cao đẳng chất lượng cao, trong đó 40 trường đạt chứng chỉ nghề. Ba trường trong 4 nước ASEAN gần với các nước phát triển trong G20. Đến năm 2030, có thêm 3 đến 5 trung tâm quốc gia về dạy nghề và thực hành nghề chất lượng cao, 90 trường chất lượng cao … Các trung tâm này được kỳ vọng cung cấp các kỹ năng chất lượng cao dựa trên quan điểm học tập suốt đời, thúc đẩy nghiên cứu và đổi mới.
Nhiều chuyên gia cho rằng quá trình phục hồi và phát triển kinh tế bền vững cần tập trung vào các trụ cột chính: đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh an toàn; triển khai kế hoạch đầu tư quy mô lớn, có tác động lan tỏa; hoàn thiện thể chế chính sách và chất lượng môi trường đầu tư; hỗ trợ phát triển thị trường lao động ; đẩy nhanh Phát triển nguồn nhân lực có tay nghề cao.
Điều này cho thấy tầm quan trọng của đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan trong thị trường này: nhà quản lý, nhà trường và doanh nghiệp. Các bên cần xây dựng chiến lược, lộ trình phát triển con người thích ứng với cơ cấu lại nền kinh tế và cuộc cách mạng công nghệ 4.0; xây dựng cơ chế hợp tác đồng bộ lợi ích và trách nhiệm chung, tạo phương thức kết nối giữa giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp và hợp tác quốc tế để phát huy kỹ năng, trau dồi những tài năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu của quá trình khôi phục và phát triển kinh tế.