Để ĐHQGHN phát triển như mong muốn, chính phủ cần xây dựng các nghị định hướng dẫn cụ thể

Sau gần 10 năm đổi mới đất nước, trước nhu cầu về nguồn lực và thực trạng của giáo dục đại học, nhà nước chủ trương hình thành 2 đại học quốc gia và 3 đại học địa phương bằng cách sắp xếp lại một số trường đại học. Đại học Hà Nội, Đại học Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế và Thái Nguyên.

Có thể nói, đó là một quyết định táo bạo và hợp lý nếu xét đến hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Sau gần 30 năm hình thành và phát triển, với 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng tính đến nay, mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau về kỳ vọng và kỳ vọng, nhưng hầu hết đều đồng tình về sự đóng góp rất tích cực của các trường đại học này.

Minh họa: N.D

Trong bối cảnh hiện nay, mô hình đại học quốc gia và đại học địa phương cũng còn một số vướng mắc cơ bản, đòi hỏi Chính phủ và các bộ ngành liên quan hết sức quan tâm để tháo gỡ vướng mắc cho chính phủ. Sự phát triển của mô hình đại học “hai bậc” là phù hợp với kỳ vọng và tiêu chuẩn của xã hội.

Điều đầu tiên cần thống nhất là việc hình thành và phát triển mô hình đại học quốc gia hay đại học vùng đều xuất phát từ chính sách của đảng và nhà nước.

Vì vậy, chúng ta cần phải động não ý tưởng, làm tốt công tác quy hoạch mạng lưới các trường cao đẳng, thích ứng với yêu cầu của tình hình mới, đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Trong quy hoạch này, miền trung cần có đại học quốc gia để cân đối nguồn lực, tạo đà phát triển cho vùng và cả nước.

Trước hết, cần khẳng định Đại học Quốc gia là trường đại học công lập, đảm nhận các nhiệm vụ chiến lược quốc gia. Đây chắc chắn không phải là một cái tên tuyển sinh cạnh tranh. Đại học Quốc gia đảm nhận các nhiệm vụ tư vấn định hướng chính sách vĩ mô; thực hiện các nhiệm vụ chiến lược về đào tạo trình độ cao; đầu tư nghiên cứu các lĩnh vực then chốt và các lĩnh vực quan trọng để tạo tiền đề cho sự phát triển đất nước, đặc biệt trong các lĩnh vực ít đầu tư của khu vực tư nhân như khoa học cơ bản. , khoa học xã hội – thuộc lĩnh vực khoa học nhân văn, khoa học kinh tế hoặc công nghệ mới …

Thứ hai, về nguyên tắc, quy hoạch là bố trí không gian và phân bổ nguồn lực cho phát triển đất nước. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học không có nghĩa là chỉ dựa vào năng lực sắp xếp, nâng cấp của các trường đại học … đất nước ta hình chữ S.

Có hai đại học quốc gia ở hai đầu để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược vĩ mô, nhưng thực tế vẫn chưa đủ để bao quát, bao quát hết các vùng miền của đất nước. Miền Trung và Tây Nguyên là địa bàn rộng lớn, có nhiều tiềm năng, lợi thế có thể đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước, nhất là kinh tế biển, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, …

Tuy nhiên, đây cũng là một lĩnh vực khó và nhiều thách thức, nguồn lực manh mún, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thường bị thu hút mạnh vào các trung tâm lớn nằm ở hai đầu. Các trường đại học địa phương và các bộ ngành, đại học địa phương dù có cố gắng đến đâu cũng khó có thể đóng vai trò kết nối, dẫn dắt phát triển vùng.

Mặt khác, với thực tế tuyển sinh như hiện nay, những ngành học được trau dồi mang tính chiến lược, nền tảng của đất nước… Việc tuyển được người giỏi, thậm chí không phải sinh viên cũng khó. Không có cơ chế, chính sách hợp lý của quốc gia thì khó đầu tư cho nghiên cứu khoa học, khó tuyển chọn và nuôi dưỡng các nguồn lực chất lượng cao cần thiết cho phát triển đất nước.

Thứ ba, về cơ chế, chính sách, đại học quốc gia có trách nhiệm vĩ mô, cần ưu tiên đầu tư phát triển, nhất là đối với những nhiệm vụ cấp bách và lâu dài. Nếu được đầu tư đúng mức, Đại học Quốc gia Hà Nội sẽ hoạch định chiến lược, phát triển nguồn lực, tập trung trí lực cho đào tạo và nghiên cứu, đóng góp vào sự phát triển chung.

Đối với các ngành khoa học cơ bản hoặc một số ngành trọng điểm, quan trọng như khoa học biển, hạt nhân, công nghệ nano… sẽ có chính sách cụ thể để thu hút chuyên gia và người học. Khi có cơ chế, chính sách phù hợp, cơ chế giám sát và quản lý cần được thực hiện để đảm bảo sự phát triển đúng đắn của các mục tiêu chiến lược. Còn việc thiếu các điều kiện cơ bản đòi hỏi các trường đại học phải duy trì và phát triển các ngành khoa học cơ bản hoặc khoa học tiên tiến nói trên thì khó có thể thực hiện được.

Thứ tư, với việc định vị các trường đại học quốc gia và đầu tư đúng trọng tâm sẽ có vai trò và khả năng kết nối vùng, kết nối các địa phương, thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quốc gia. Trong bối cảnh hiện nay, liên kết vùng có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhất là đối với vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và Tây Nguyên, nhằm bảo đảm cân đối nguồn lực trong nước, tạo lợi thế cạnh tranh trong khu vực, Đông Nam Á và thế giới.

Thứ năm, định vị các trường đại học quốc gia cần gắn kết chặt chẽ với đô thị trung tâm của một vùng. Bởi lẽ, đô thị trung tâm của một vùng sẽ là nơi kết nối các lĩnh vực kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, du lịch, y tế, khoa học công nghệ, đồng thời là nơi quan trọng về vốn đầu tư, giao thông, giao lưu trong và ngoài nước. . Trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của vùng và cả nước… Khi ĐHQG kết nối chặt chẽ với thành phố trực thuộc trung ương, nhất định sẽ trở thành “đòn bẩy” thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh nói chung. nói.

Do đó, xét về không gian, nhu cầu phát triển các vùng kinh tế chiến lược và thực trạng phân cấp quản lý nhà nước, miền Trung Việt Nam cấp thiết cần có một trường đại học quốc gia ở hai đầu đất nước. Đây không phải là một đặc ân, mà là một nhiệm vụ quốc gia được chia sẻ bởi tất cả các bên liên quan.

Nhưng cần phải nói thêm rằng, để các trường đại học quốc gia và địa phương phát triển đúng với kỳ vọng của xã hội, đặc biệt là đóng góp tích cực vào sự nghiệp giáo dục đại học, đặc biệt là sự phát triển bền vững của đất nước. Nhìn chung, Chính phủ cần có một nghị định hướng dẫn cụ thể và Quốc hội cũng nên có một nghị quyết chuyên đề, ưu tiên nguồn lực để đảm bảo họ đủ mạnh và ổn định để thúc đẩy lĩnh vực khoa học. Các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, khoa học xã hội nhân văn, khoa học kinh tế, công nghệ hiện đại rất xứng đáng và nổi bật.

Chỉ bằng cách này, nước ta mới đảm bảo được nguồn lực chất lượng cao có thể dẫn dắt một nền kinh tế cạnh tranh trong bối cảnh hội tụ và nhiều biến động khó lường.

Phó giáo sư Wu Wenming