Giáo dục nghề nghiệp đào tạo hơn 1.500 chuyên ngành, nghề đáp ứng nhu cầu xã hội

Nghề pha chế (Ảnh: TCDN).

đào tạo tất cả các môn học

Mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo nghề nghiệp phát triển rộng khắp trên cả nước, đa dạng về loại hình và mô hình hoạt động, phân bố hợp lý giữa các thành phần kinh tế, các vùng, miền và các vùng miền.

Theo tinh thần Nghị quyết 19-NQ / TW, TVET đã hình thành mạng lưới các khoa, các ngành, nghề trọng điểm có chất lượng, trình độ khu vực và quốc tế theo đề án của Chính phủ phê duyệt. Thành lập và xây dựng một số cơ sở giáo dục kỹ thuật, dạy nghề để đào tạo các nhóm yếu thế (người tàn tật, dân tộc thiểu số …), đào tạo các chuyên ngành, nghề phục vụ phát triển kinh tế biển, đào tạo nhóm lao động nước ngoài. các môn thể thao.

Các chuyên ngành đào tạo trong lĩnh vực TVET rất đa dạng, phong phú, đáp ứng được mọi nhu cầu học nghề của thanh niên và nhu cầu của thị trường lao động. Theo danh mục đào tạo, hiện có 669 nghề, trình độ cao đẳng và 897 nghề, trung cấp, thuộc 65 nhóm, nghề thuộc 23 lĩnh vực, bao gồm các lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội. kinh tế, xã hội; công nghệ, dịch vụ, y tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng…).

Những người học việc trẻ đang phát triển

Số lượng thanh niên tham gia học nghề ngày càng tăng trong những năm gần đây. Số học sinh, sinh viên nhập học năm 2016 – 2020 đạt 11,077 triệu người (đạt 103% kế hoạch, tăng hơn 21% so với kết quả thực hiện năm 2011-2015), vượt kế hoạch được giao năm 2016 – 2020, trong đó: 2.472 trình độ cao đẳng và trung cấp kỹ thuật, sơ cấp nghề và đào tạo nghề khác 8,605 triệu người.

Học sinh tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp đạt 10,212 triệu (108% số học sinh hoàn thành chương trình). Trong đó: 1,993 triệu người có trình độ cao đẳng và trung cấp kỹ thuật; 8,219 triệu người có trình độ sơ cấp và đào tạo nghề khác.

Từ năm 2011 đến năm 2020, có 19,67 triệu sinh viên theo học, trong đó có 1,945 triệu sinh viên đại học (9,8%) và 2,3 triệu sinh viên trung cấp (11,86%); dân tộc thiểu số chiếm khoảng 7,5% và nữ giới chiếm 25,5%.

Việc mở rộng quy mô đào tạo sẽ giúp nâng tỷ lệ học viên của cả nước lên 24,6% vào năm 2020.

Từng bước xây dựng lộ trình, ngành nghề đào tạo, từng bước phù hợp với thực tế của doanh nghiệp trên các vùng, lĩnh vực và thị trường lao động (TTLĐ).

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số 1956 / QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009. Hơn 9 triệu lao động nông thôn cả nước được học nghề (91% kế hoạch), trong đó có gần 5,2 triệu người được hỗ trợ học nghề, đạt 73,5% kế hoạch.

Các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương (người tàn tật, dân tộc thiểu số, nghèo), phụ nữ nông thôn, bộ đội xuất ngũ … được quan tâm đào tạo nghề, giải quyết việc làm với nhiều hình thức, mô hình phù hợp, chính sách hiệu quả.

Năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do dịch Covid-19 bùng phát trở lại nhưng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật ở địa phương và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã có nhiều cố gắng trong công tác tuyển sinh.

Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước đã tuyển được 1.915.548 người, đạt 85,14% kế hoạch (cao đẳng, trung cấp 375.108 người, đạt 65,81%; sơ cấp chuyên nghiệp) và giáo dục chuyên nghiệp khác: 1.540.440 người, đạt 91,69%.

Phối hợp với nước ngoài đào tạo nghề chất lượng cao, học viên tốt nghiệp nhận 2 bằng

Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy nghề, số lượng và chất lượng giáo viên dạy nghề và giáo dục kỹ thuật tăng nhanh, từng bước đạt chuẩn về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề và năng lực giảng dạy; một số giáo viên dạy các nghề trọng điểm quốc tế được đào tạo ở nước ngoài.

Trên 50% giáo viên THCS và đại học được dạy học tích hợp (lý thuyết và thực hành). Đã hình thành mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề.

Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục nghề nghiệp có trình độ chuyên môn tương ứng, được quan tâm, được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến ​​thức và kỹ năng quản lý, từng bước đạt chuẩn. Đặc biệt, một số cán bộ quản lý đã được đào tạo tại Trung Quốc theo các dự án quốc tế, và đã được đào tạo tại Úc, Đức, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và các nước khác. …

Cơ quan TVET phối hợp với các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch đào tạo trên cơ sở chuẩn đầu ra đảm bảo tính linh hoạt hơn, phù hợp hơn cho các doanh nghiệp sử dụng nguồn nhân lực trong thực tế; hợp tác với các tổ chức quốc tế đã xây dựng các dự án thí điểm tại Pháp, Bỉ, Đức, Thụy Sĩ … Chương trình đào tạo tiên tiến ở nhiều nước phát triển như Úc, và chương trình đào tạo tiên tiến ở Úc, Khối thịnh vượng chung và các nước phát triển khác cũng được chuyển giao. Đức, Pháp và Hàn Quốc.

Nhiều cơ sở TVET và các cơ sở đào tạo nước ngoài đã triển khai các chương trình đào tạo chất lượng cao và các chương trình liên quan.

Phương pháp đào tạo từng bước được đổi mới, ứng dụng công nghệ đào tạo, công nghệ thông tin vào hoạt động dạy học; chuyển hướng dạy học thụ động sang hướng chủ động hóa, cá nhân hóa của người học; bước đầu thực hiện chuyển đổi số trong tổ chức quản lý, đào tạo.

Kể từ năm 2019, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, các hoạt động TVET đã số hóa và chuyển đổi tuyển sinh đào tạo sang danh mục đầu tư trực tuyến;

Cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo được đầu tư phù hợp với danh mục thiết bị đào tạo tối thiểu và kế hoạch đào tạo; trong nền tảng công nghiệp 4.0, nhóm ngành, công nghiệp trọng điểm đã được đầu tư đồng bộ, hiện đại, trang thiết bị tiên tiến, phù hợp với công nghệ sản xuất của doanh nghiệp.

Định mức kinh tế – kỹ thuật ngành, nghề ra đời đã thúc đẩy bước đầu cập nhật cơ chế quản lý tài chính của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật, từ việc bố trí kinh phí hoạt động thường xuyên đến đặt hàng đào tạo theo đầu ra; nhiều cơ sở dạy nghề đầu tư đồng bộ trang thiết bị, tiệm cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.

Đẩy mạnh đào tạo chất lượng cao, tổ chức đào tạo thí điểm theo các bộ dự án nhập khẩu từ Australia và Đức. Sinh viên tốt nghiệp với văn bằng 02 (bằng của Việt Nam và bằng của nước chuyển giao) có khả năng tham gia vào thị trường lao động quốc tế.

Đã có sự thay đổi tích cực trong mối liên kết của TVET với thị trường lao động và công việc tử tế, và nhận thức về kinh doanh của TVET đã thay đổi trong quan hệ hợp tác kinh doanh với các cơ quan quản lý quốc gia và cơ quan TVET các cấp. Có nhiều hình thức và mô hình hợp tác giữa cơ sở TVET và doanh nghiệp; gắn kết giữa đào tạo sau đại học và tạo việc làm.

80% sinh viên ra trường có việc làm phù hợp

Theo thống kê của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, chất lượng, hiệu quả dạy nghề từng bước được cải thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động.

Kỹ năng nghề của người học được nâng cao, khoảng 80% học viên tốt nghiệp có việc làm và trình độ đào tạo phù hợp với nghề hoặc tự tạo việc làm, tham gia vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế (tỷ lệ việc làm nông thôn sau đào tạo đạt 89,3%, vượt 9,3%).

Trong một số ngành nghề nhất định (hàn, cơ điện tử, viễn thông, logistics, du lịch, dầu khí …), người lao động Việt Nam có kỹ năng nghề đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và có thể đảm nhận nhiều công việc phức tạp mà trước đây nước ngoài phải thực hiện. Các chuyên gia.

Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới-WEF (2019), chất lượng đào tạo nghề của Việt Nam được cải thiện 13 bậc trong trụ cột kỹ năng. Đoàn Việt Nam đạt thứ hạng cao trong các kỳ thi tay nghề khu vực và thế giới, chất lượng dạy nghề bước đầu được khẳng định ngang tầm khu vực và thế giới.

Ngân sách nhà nước chi cho TVET trung bình khoảng 8%.

Nguồn lực đầu tư của TVET tiếp tục được tăng cường và đa dạng hóa. Trong giai đoạn 2012-2019, chi ngân sách nhà nước của TVET chiếm bình quân 8% chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề.

Ngân sách quốc gia ưu tiên đầu tư cho vùng nghèo, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, tăng dần theo hướng (từ năm 2017, tiêu chuẩn phân bổ kinh phí đào tạo, giáo dục nghề nghiệp có sự khác nhau giữa các vùng). So với giai đoạn 2011-2016, tăng bình quân 1,76 lần); huy động các nguồn lực xã hội của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo nghề, kỹ thuật.