Điều này được TS Hoàng Trung Trung, Trưởng khoa Tâm lý Giáo dục, Trường Cán bộ quản lý giáo dục nêu rõ, trao đổi với PV Dân trí tại Đại hội Khoa học toàn quốc về thực trạng nhiều học sinh trầm cảm dẫn đến tự tử. Bởi: “Ứng dụng trong trường học, Tâm lý học trong bối cảnh đổi mới giáo dục,” ngày 14 tháng 4.
Tình huống báo động
Thưa ông, dư luận đang bàng hoàng sau thảm kịch học sinh tự tử vừa qua. Có vẻ như những vấn đề về trầm cảm và tự tử ở lứa tuổi học đường gần đây không chỉ dừng lại ở một trường hợp nhỏ?
– Việc học sinh tự tử gần đây là hệ quả của một quá trình “có chủ đích”, tức là các yếu tố thúc đẩy ý định tự kết liễu đời mình đã có từ lâu.
Ngay từ 2 tháng trước, chúng tôi đã nhận được tin báo của Dân trí rằng theo thống kê, gần 24% học sinh, sinh viên Việt Nam có ý định tự tử. Hành vi tự sát phải trải qua 3 giai đoạn gồm ý nghĩ tự sát, ý định tự sát (có kế hoạch, tự sát không thành) và tự sát thành công dẫn đến giết người. Rõ ràng, gần 24% học sinh có suy nghĩ liên quan đến tự tử, một con số rất đáng lo ngại và đáng lo ngại.
Trước đại dịch Covid-19, thống kê của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) cho thấy, khoảng 3% trẻ em ở Việt Nam từng có ý định tự tử. Nhưng gần đây, con số đó đã tăng lên gần 24% (thế giới thường chỉ trên dưới 9%).
Các lý do cho sự gia tăng hiện tượng có thể rất đa dạng, chẳng hạn như áp lực của sự xa cách xã hội, Covid-19 làm đảo lộn một loạt các hoạt động và các mối quan hệ thực tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tâm lý của trẻ.
Các em mắc phải một hội chứng mà chúng tôi tạm gọi là “hội chứng tâm lý do Covid-19” gây ra, biểu hiện của sự suy giảm nghiêm trọng về các vấn đề nhận thức: suy giảm trí nhớ, suy giảm tư duy, khó tập trung.
Ngoài ra, còn có các vấn đề về hành vi như tăng xung đột, tăng nghiện chơi game, nghiện điện tử, bỏ học và vi phạm kỷ luật lớp học. Tâm trạng của trẻ cũng sẽ xấu đi và dễ bị kích động. Trẻ em cũng có thể gặp các vấn đề về thể chất như đau đầu và đau nhức cơ thể mà không rõ lý do.
Những vấn đề này đều là biểu hiện của hội chứng tâm lý. Và thiết nghĩ, ý nghĩ tự tử chỉ là biểu hiện bên ngoài. Nghiên cứu gần đây của chúng tôi với gần 20.000 sinh viên cho thấy tỷ lệ trầm cảm, lo lắng và căng thẳng đã tăng lên đáng kể trong thời gian gần đây. Cụ thể, hơn 60% trẻ em bị căng thẳng, 30% bị trầm cảm và 40% bị lo âu. Đây là những vấn đề tương tự gây ra hành vi tự sát.
Theo bạn, các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội có ít nhiều ảnh hưởng đến hàng loạt vụ học sinh tự tử này?
– Như đã đề cập trước đó, các yếu tố khiến trẻ em tự tử đã có lịch sử lâu đời. “Kích hoạt” cho hành vi có thể do nhiều yếu tố gây ra, bao gồm cả các vấn đề giao tiếp.
Đối với học sinh, khả năng chống chọi với những cú sốc thông tin bên ngoài khá kém. Họ muốn thể hiện bản thân, thể hiện bản thân. Khi mâu thuẫn với cha mẹ, thầy cô, hay buồn chán, thấy báo đài liên tục đưa tin về những vụ tự tử, nhiều lần họ muốn thử, dù không nghĩ mình sẽ chết hay định làm. Tôi thực sự muốn chết. Nhưng cuối cùng, hãy thành thật thử lại.
Tôi cho rằng các nhà quản trị mạng và an ninh mạng cần kiểm soát chặt chẽ các thông tin độc hại tương tự từ trẻ vị thành niên. Thông tin hoặc hình ảnh không phù hợp này có thể gây ra phản ứng gây ra hành vi bắt chước tương tự ở những trẻ khác.
Có nên đổ lỗi cho gia đình và nhà trường?
Sau khi học sinh tự tử, nhiều ý kiến cho rằng áp lực học hành hay những lời mắng mỏ của cha mẹ, thầy cô là nguyên nhân khiến các em chọn cách bỏ trốn. Bạn nghĩ gì về quan điểm này?
– Tôi nghĩ sẽ khá phiến diện nếu đổ lỗi mọi chuyện cho gia đình, thầy cô và nhà trường. Căng thẳng có thể có trong bất kỳ hoàn cảnh nào và nhiều học sinh đều giống nhau, nhưng tại sao mỗi em lại chọn một giải pháp khác nhau? Do đó, quyết định tự tử vẫn có thể là do vấn đề nội tại của chính học sinh, tức là khả năng tiếp nhận, ứng phó và giải quyết vấn đề của học sinh còn kém.
Chúng ta đã từng nghe thế giới bàn tán về quan điểm chỉ có một thế hệ thanh niên trong xã hội ngày nay, được gọi là thế hệ “bông tuyết”, rất trong sáng nhưng dễ bị tổn thương, nhạy cảm và dễ xúc động. Các phản ứng có hại ở trẻ em có thể liên quan đến một loạt các hoạt động nuôi dạy con cái và kỳ vọng của cha mẹ. Chúng ta phải giáo dục trẻ biết đối mặt với khó khăn và có ý chí vượt qua, thay vì rơi và biến mất như “bông tuyết”.
Vì vậy, khi trẻ có sức chịu đựng kém và có vấn đề về tâm lý, căng thẳng học hành hay bị mắng mỏ có thể là tác nhân gây nên, kích hoạt và thúc đẩy hành vi tự tử. Điều này cũng đúng đối với một sinh viên có ý định tốt và sức khỏe tinh thần, và không có khả năng xảy ra sự việc đáng tiếc.
Hầu hết các vụ tự tử gần đây xảy ra ở các lớp 8, 9 và tuổi vị thành niên. Theo anh, những vấn đề tâm sinh lý lứa tuổi này dẫn đến những hành vi đáng tiếc ở trẻ em như thế nào?
Tuổi mới lớn là giai đoạn chuyển tiếp mà tâm sinh lý của trẻ trải qua những thay đổi đột ngột và nhanh chóng. Cả hệ thần kinh và hệ tuần hoàn đều mất cân bằng.
Với hệ thần kinh, chúng ta có thể thấy rõ khả năng hưng phấn của học sinh cấp 2 rất cao nhưng ức chế bên trong lại rất thấp. Về hệ tuần hoàn, khi trẻ vận động, nhịp tim tăng cao nhưng máu không được cung cấp kịp thời dẫn đến thiếu máu cục bộ. Do đó, trẻ đôi khi cảm thấy đột ngột mệt mỏi và thậm chí ngất xỉu tạm thời. Trẻ cũng dễ bị kích động và phản ứng theo cách hung hăng, tức là không kiểm soát được hành vi của mình.
Vì vậy, khi không được thỏa mãn, trẻ có xu hướng rơi vào trạng thái hưng phấn, dễ xúc động và có thể hành động bốc đồng.
Cách giúp con bạn tăng khả năng chịu đựng những khó khăn
Theo em, cha mẹ, thầy cô giáo phải làm gì để con em mình “bớt gánh nặng”, có lòng nhân ái, biết đối mặt với khó khăn?
– Cha mẹ trước hết cần tạo điều kiện cho con sinh hoạt điều độ. Nếu cả ngày chỉ chăm chăm vào máy tính, điện thoại di động, chơi game thì trẻ dễ mắc các vấn đề về tâm lý như căng thẳng, lo âu, trầm cảm, lâu dần nảy sinh ý định tự tử. Trẻ em cần học, cần bạn bè, cần thầy cô, cần được sống và hoạt động trong môi trường thực tế chứ không phải thế giới ảo trên game và điện thoại di động.
Ngoài ra, không còn cách nào khác là “gia tăng” “gánh nặng” mà một đứa trẻ phải trải qua từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành, khi vấp ngã, khi gặp phải những rắc rối có thể xảy ra. Chúng ta đừng bao giờ mong đợi một người phải tinh tế, từng trải, mạnh mẽ và không bao giờ gặp bất cứ khó khăn nào trong cuộc sống.
Thưa các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và các thầy cô giáo phải làm gì khi thấy con em mình có những biểu hiện của bệnh tâm thần, đặc biệt là ý định tự tử?
– Trước hết, cha mẹ và giáo viên cần dành thời gian gần gũi con cái để lắng nghe và xác định những vấn đề của con mình càng sớm càng tốt. Trẻ có ý định tự tử, có xu hướng biểu hiện các dấu hiệu rõ ràng như giảm hứng thú, giảm giá trị (luôn buồn chán, mệt mỏi, cảm giác không muốn gì nữa hoặc trước đây hiếu động, ham chơi nhưng ít hoạt bát hơn). trở nên quan tâm đến cái chết hoặc các cuộc thảo luận về cái chết.
Đặc biệt, trẻ em có tiền sử tuyệt thực và cố gắng tự tử là những trường hợp nổi bật.
Nguyên tắc là ưu tiên bảo vệ tính mạng trẻ em trong trường hợp khẩn cấp. Nếu vấn đề tâm lý của trẻ nghiêm trọng, trẻ có thể bị đình chỉ học và đưa đến bác sĩ tâm lý và bệnh viện để được tư vấn và hỗ trợ.
Khi trẻ ổn định dần dần thực hiện các giải pháp lâu dài, xem xét bệnh cấp tính ở đâu rồi mới bắt đầu điều trị tận gốc. Hãy nghĩ xem bạn có ép con quá, ép con học quá nhiều hay không, hãy cho con tập thể dục, thể thao, dạy cho con ý chí vượt khó, v.v.
Cảm ơn rât nhiều!