Kinh nghiệm quốc tế về tự chủ tài chính của trường đại học và các hàm ý chính sách đối với Việt Nam

Trong xã hội hiện đại, một trong những yếu tố quan trọng mà bất kỳ hoạt động kinh tế, xã hội nào cũng phải có đó là nguồn lực tài chính. Nguồn lực tài chính là một vấn đề trong lộ trình tự chủ đại học của Việt Nam, vì vậy, các trường đại học công lập có thể nâng cao chất lượng đào tạo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, mở rộng vững chắc quan hệ đối tác và phát triển của trường. Học hỏi kinh nghiệm tự quản tài chính của các trường đại học một số nước trên thế giới sẽ giúp Việt Nam nâng cao năng lực hoạt động của các trường đại học và nắm bắt cơ hội hội nhập nhanh với giáo dục thế giới.

Quản lý của Cơ quan Tài chính Đại học

Tự chủ đại học là một yếu tố cần thiết của quản trị đại học, thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và các cơ sở giáo dục đại học, tiến tới giảm dần sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước đối với các cơ sở giáo dục. Các quốc gia có hệ thống giáo dục phát triển như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Singapore đã thực hiện tự chủ đại học từ nhiều thập kỷ trước, và đã trở thành những quốc gia tiêu biểu trên thế giới về nền giáo dục mở.

Về bản chất, “tự chủ đại học” là chỉ một mức độ độc lập nhất định của trường đại học khỏi sự quản lý nhà nước có liên quan về quản trị cơ cấu tổ chức, phân bổ nguồn lực tài chính, tạo nguồn thu, tuyển dụng, cung cấp điều kiện học tập, thực hiện giảng dạy và thực hiện. hoạt động nghiên cứu. Cụ thể, tự chủ đại học chủ yếu tập trung vào 4 khía cạnh, bao gồm: (i) học thuật; (ii) nguồn nhân lực; (iii) tài chính; (iv) quản trị tổ chức; trong đó, tự chủ tài chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học.

Trong đó, quá trình tự chủ tài chính, đặc biệt là quá trình tự chủ đại học, là con đường để cơ chế quản lý hệ thống giáo dục đại học ở các nước chuyển đổi từ mô hình do nhà nước quản lý sang mô hình có sự giám sát của nhà nước. Với việc trao quyền tự chủ và chịu trách nhiệm tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học công lập sẽ mở ra cơ hội cho các cơ sở giáo dục đại học công lập tăng cường động lực và tính chủ động. Quản lý sáng tạo tài chính, tài sản của đơn vị, sử dụng hiệu quả hơn nguồn ngân sách nhà nước được giao. Vì vậy, chỉ thông qua cơ chế tự quản vốn có mới có thể thúc đẩy sự phát triển năng động của hệ thống giáo dục đại học và phù hợp với quá trình hội nhập toàn cầu hiện nay.

Việc thực hiện tự chủ tài chính trong các cơ sở giáo dục đại học công lập không chỉ có lợi cho việc tiết kiệm chi phí mà còn có thể tăng thu nhập từ đầu tư cho giáo dục. Hiện nay, các cơ sở giáo dục đại học trên thế giới nhận được hỗ trợ tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm: Các khoản tài trợ của Nhà nước để hoạt động, đặc biệt là giảng dạy và nghiên cứu. Kinh phí được cấp cho nghiên cứu hoặc hỗ trợ các dự án nghiên cứu từ các nguồn khác nhau (các Bộ); học phí và các khoản phí khác thu cho sinh viên trong và ngoài nước; doanh thu hợp đồng nghiên cứu, doanh thu chuyển giao công nghệ, doanh thu hợp đồng đào tạo, doanh thu dịch vụ tư vấn, doanh thu bản quyền … khuôn viên trường là Thu nhập từ các hoạt động dịch vụ cho giáo viên hướng dẫn, sinh viên và dịch vụ cộng đồng; thu nhập từ các khoản đóng góp, tài trợ, quà tặng và đầu tư. Với việc trao quyền tự chủ thu ngân sách sẽ giúp tăng tính năng động, sáng tạo của các trường đại học trong việc tìm kiếm nguồn thu và giảm bao cấp của Nhà nước. Đồng thời, khi thực hiện chế độ khoán, khoán chi đã có tác dụng chuyển dịch ý thức về tiết kiệm nguồn kinh phí và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực. Vì vậy, khi thu nhập tăng, các trường đại học sẽ có nguồn tài chính để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực… nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở giáo dục đại học.

Kinh nghiệm Quốc tế của Cơ quan Tiền tệ Đại học

Nghiên cứu này tổng hợp kinh nghiệm của các trường đại học trên thế giới về tự chủ tài khóa tập trung vào ba lĩnh vực chính: phân bổ nguồn ngân sách công cho hệ thống trường đại học; các quy định quản lý khả năng các trường đại học vay từ thị trường tài chính; và chính sách thúc đẩy nỗ lực tự chủ đa dạng hóa nguồn thu của các trường đại học. Đặc biệt:

(i) Phân bổ công quỹ cho hệ thống trường đại học

– Ở các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU), các trường đại học công nhận được tài trợ cơ bản từ chính phủ dưới hình thức gói tài trợ. Gói tài trợ được hiểu là một nguồn hỗ trợ tài chính nhằm hỗ trợ tài chính cho nhiều hoạt động của trường đại học như giảng dạy, quản lý và nghiên cứu khoa học. Thông thường, chính phủ đưa ra chương trình tài trợ một năm, với một số trường hợp ngoại lệ thì thời gian dài hơn, chẳng hạn như Áo (03) và Luxembourg (04). Ngoài ra, nguồn tài trợ được điều chỉnh tùy theo việc trường đại học có đáp ứng được các mục tiêu hoạt động hàng năm hay không, ví dụ như tài trợ ở Anh và Estonia phụ thuộc vào kết quả hoạt động của trường đại học, cho dù trường đó có đạt chỉ tiêu tuyển sinh hoặc tốt nghiệp hàng năm hay không.

Trong lĩnh vực nghiên cứu, chính phủ các nước phát triển cũng có cơ chế phân bổ nguồn ngân sách quốc gia theo các tiêu chí khác nhau. Tại Australia, theo Khung chất lượng nghiên cứu khoa học được công bố năm 2004, chính phủ sẽ đánh giá đầu ra nghiên cứu của các trường đại học dựa trên hai bộ tiêu chí: Chất lượng công trình nghiên cứu. Tác động của nghiên cứu khoa học. Dựa trên đánh giá này, chính phủ sẽ điều chỉnh ngân sách tài trợ nghiên cứu của mỗi trường đại học hàng năm. Ở Anh, từ năm 1989, chính phủ đã ban hành quy chế đánh giá nghiên cứu khoa học trong các trường đại học để làm cơ sở phân bổ nguồn lực cho ngân sách quốc gia. Theo quy định này, Chính phủ đã thành lập hội đồng xét duyệt để đánh giá thành tích nghiên cứu khoa học của các trường đại học trong giai đoạn 1989-2000 và áp dụng thang điểm 7 từ năm 2001; các thành tích nghiên cứu khoa học từ năm 2008 được phân nhóm theo thang điểm 05- tiêu chuẩn cấp độ, bao gồm: (1) Hàng đầu Thế giới, tương đương 4 sao; (2) Xuất sắc Quốc tế, tương đương 3 sao; (3) Quốc tế, tương đương 2 sao; (4) Quốc gia, tương đương 1 sao; (5) Chưa được xếp hạng, tương đương 0 sao. Ngoài ra, các tiêu chí này cũng áp dụng cho các khía cạnh khác của 03 kết quả nghiên cứu, bao gồm: kết quả nghiên cứu; tác động nghiên cứu; môi trường nghiên cứu. Mặc dù việc đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học tiêu tốn một lượng lớn nguồn lực của Chính phủ về nhân lực và tài chính, nhưng mục tiêu chung vẫn là định hướng phân bổ ngân sách quốc gia phù hợp cho hoạt động nghiên cứu khoa học. trong nghiên cứu lớn.

– Giáo dục đại học ở Hoa Kỳ là giáo dục định hướng thị trường và bao gồm hệ thống trường công lập và trường tư thục. Các trường đại học công lập lớn ở Hoa Kỳ, được liên kết chặt chẽ và được hỗ trợ tài chính từ các bang. Tuy nhiên, các trường tư thục cũng nhận được hỗ trợ tài chính từ chính quyền bang, nhưng rất ít so với các trường đại học công lập. Theo xu hướng chung, nguồn hỗ trợ chính từ chính quyền các bang, đặc biệt là hệ thống các trường đại học công lập đang ngày càng ít đi. Nếu trong thế kỷ 20, các cơ sở giáo dục đại học của Mỹ nhận được 20-30% hỗ trợ tài chính từ chính quyền các bang thì đến thế kỷ 21 con số này đã giảm xuống còn 10%. Đồng thời, các cơ sở giáo dục đại học có quyền tăng quyền tự chủ về các nguồn thu của họ (như thu nhập từ nghiên cứu, đầu tư, dịch vụ, tài trợ và học phí) mà không bị kiểm soát bởi chính phủ. Quyền lực của nhà nước đối với các khoản thu này. Đồng thời, các trường cao đẳng, đại học được toàn quyền sử dụng nguồn thu và thực hiện cơ chế hạch toán thu chi như doanh nghiệp để đảm bảo năng lực đào tạo và tăng cạnh tranh thị trường “giáo dục”.

– Tại các nước Châu Á có hệ thống giáo dục phát triển như Nhật Bản và Singapore, các nhà hoạch định chính sách ở các nước này đã đưa ra các chính sách cắt giảm nội dung nhằm thúc đẩy quyền tự chủ về tài khóa. Thu nhập, điều chỉnh chi phí và quản lý tài chính hiệu quả. Do đó, một trong những chính sách được sử dụng rộng rãi để khuyến khích / thúc đẩy tự chủ tài khóa là thắt chặt phân bổ ngân sách của chính phủ cho các trường đại học. Bên cạnh việc cắt giảm ngân sách, Chính phủ Nhật Bản đã sử dụng các gói tài trợ có mục tiêu, thay vì phân bổ ngân sách cho các trường đại học theo cơ chế bao cấp hoàn toàn như trước đây. Tại Nhật Bản, tài trợ của chính phủ tính theo tỷ lệ phần trăm trong tổng doanh thu của các trường đại học đã giảm từ 49,6% xuống 38,6% trong giai đoạn 2004-2009 [9]. Đồng thời, thu nhập học phí và lệ phí ghi danh của các cơ sở giáo dục công lập được phép tăng 10% để bù đắp và bảo vệ thu nhập ngoài trợ cấp của chính phủ.

(ii) Quy định về khả năng vay vốn từ thị trường tài chính của Trường

– Tạo điều kiện cho các trường đại học ở các nước phát triển tìm kiếm thu nhập từ thị trường tài chính và bất động sản. Đối với thị trường tài chính, hầu hết các quốc gia đều cho phép các trường đại học vay từ các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính. Tuy nhiên, chính phủ vẫn có những công cụ để kiểm soát hoạt động cho vay như chỉ định ngân hàng cho vay, sử dụng các cơ quan bên ngoài để thẩm định các trường đại học, giới hạn hạn mức vay hoặc một số điều kiện khác.

– Về bất động sản, hiện có 23/27 quốc gia thuộc EU (trừ Đức, Hungary, Litva, Thụy Điển) cho phép các trường đại học tạo quỹ bằng cách sở hữu bất động sản. Bất động sản, chẳng hạn như đất đai và cơ sở vật chất, có một chính sách khá linh hoạt trong đó chính phủ kiểm soát việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản của trường đại học.

(iii) Các chính sách thúc đẩy nỗ lực tự định hướng và đa dạng hóa các nguồn thu của trường đại học

Việc cắt giảm và thắt chặt các quy định về quản lý tài chính của Chính phủ vừa là động lực vừa là áp lực để các trường cao đẳng, đại học tìm kiếm các nguồn thu mới, đa dạng và giảm thiểu rủi ro do biến động nguồn thu. Việc nhà trường phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn kinh phí sẽ cản trở quá trình xây dựng và phát triển của nhà trường, tức là hạn chế tính chủ động, sáng tạo của chính trường trong việc sử dụng nguồn lực. Đường. Việc đa dạng hóa các nguồn thu đã thúc đẩy các trường đại học tích cực phát triển các chương trình đào tạo chất lượng phù hợp với thị trường, từ đó tăng tiềm năng học phí và sự chấp nhận của sinh viên. Đồng thời, đẩy mạnh việc vay vốn từ các tổ chức tài chính để đầu tư cơ sở vật chất và cung cấp các dịch vụ phù hợp với chuyên môn của trường, đặc biệt là phát triển các dự án đổi mới sáng tạo liên quan đến lĩnh vực kinh tế thông qua nghiên cứu và chuyển giao cho doanh nghiệp.

– Các chính sách đa dạng hóa thu nhập được chính phủ các nước phát triển ở Châu Âu nhấn mạnh áp dụng cho các hệ thống trường đại học, bao gồm:

+ Chính sách tạo điều kiện phát triển trường đại học dựa trên bản sắc doanh nghiệp: Chính phủ xây dựng khung chính sách cho các trường đại học nhằm xác định mục tiêu cung cấp dịch vụ cho thị trường liên quan đến các hoạt động cụ thể. (hoạt động ngoài khuôn khổ do Trường quy định), ngoài mục tiêu đạt được trong học tập. Do đó, chính sách tạo hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học triển khai các hoạt động phát triển thị trường dựa trên thế mạnh học thuật, đảm bảo đa dạng hóa thị trường, mục tiêu và chia sẻ lợi nhuận nội bộ của các hoạt động.

+ Việc nới lỏng các quy định về hoạt động học thuật của trường đại học. Tương ứng, nhà nước chỉ quy định khung của phương thức kiểm định mới, để các trường cao đẳng và đại học có thể linh hoạt hơn trong việc thiết kế các khóa học và giới thiệu các chủ đề học thuật theo nhu cầu của thị trường.

+ Chính sách này cho phép các trường đại học thiết kế mức học phí linh hoạt. Trường Đại học Tự chủ sẽ thiết kế linh hoạt khung học phí để thay đổi quản trị và tăng khả năng cạnh tranh trong hệ thống các trường đại học. Với khả năng cạnh tranh trên thị trường giáo dục thế giới và lợi thế về nền tảng giáo dục và nghiên cứu khoa học, các trường đại học ở các nước phát triển có nhiều cơ hội tăng thu nhập từ sinh viên quốc tế hơn so với sinh viên trong nước.

– Đài Loan ban hành Quỹ Phát triển Đại học (UDFF) vào năm 1995, có hiệu lực vào năm 1998. Theo mô hình này, các trường đại học công lập chỉ được chính phủ tài trợ bằng cấp và 80% thu nhập hiện tại không cần phải chuyển cho kho bạc Nhà nước. Với cơ chế này, các trường đại học công lập có động lực để tìm cách đa dạng hóa các nguồn thu, tối ưu hóa chi tiêu, và do đó tăng quyền tự chủ về tài chính. Ngoài ra, chính phủ đã khuyến khích các trường đại học công lập thực hiện các chương trình phát triển thành công ty cổ phần đại chúng, giúp tăng khả năng tự chủ về tài chính của các trường đại học công lập.

– Từ năm 2004, các trường đại học công lập ở Nhật Bản được chuyển đổi thành công ty cổ phần trường đại học công lập. Tương ứng, trường đại học công lập trở thành một pháp nhân độc lập và hoạt động quản lý tài chính của trường chuyển từ cơ chế kiểm soát chi sang cơ chế kiểm soát thu chi dựa trên cơ sở tích lũy. Cụ thể, học phí là nguồn thu tự có của trường, trước đây không phải nộp cho nhà nước. Điều này có nghĩa là trường đại học có thể kiểm soát thu chi [9].

– Ở Indonesia, mặc dù các trường đại học có quyền quyết định mức học phí nhưng chính phủ vẫn quy định thu nhập từ học phí không được cao hơn 30% tổng chi phí của trường đại học. Đồng thời, chính phủ cũng quy định ít nhất 20% chi tiêu đại học phải dành cho sinh viên nghèo.

– Singapore triển khai và áp dụng mô hình trường đại học hoạt động theo cơ chế công ty và doanh nghiệp. Tương ứng, cơ chế hoạt động của doanh nghiệp “đại học” đã được thực hiện trên các khía cạnh: (i) sử dụng linh hoạt các nguồn vốn, chú trọng việc sử dụng các quỹ vốn; (ii) chế độ tiền lương, tiền thưởng theo mức độ hoàn thành công việc; (iii) giảng viên Không phải là công chức; (iv) tăng quyền tự chủ của trường đại học (tập trung vào các trường đại học công lập). Coi trường đại học công lập là doanh nghiệp “đại học” không có nghĩa là thương mại hóa hoàn toàn, mà là mô hình doanh nghiệp phi lợi nhuận, hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ và cạnh tranh. Nhà nước xác định mục tiêu, chiến lược và định hướng của giáo dục đại học, chuyển từ cơ chế kiểm soát sang cơ chế giám sát và tham vấn.

Một số gợi ý chính sách đối với Việt Nam

Nền tảng của tự chủ tài chính trong các trường đại học Việt Nam

Trong những năm qua, giáo dục đại học Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Theo báo cáo tổng kết năm học 2020 – 2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước hiện có 235 trường đại học, cao đẳng (gồm 170 trường công lập, 60 trường tư thục và 5 trường đại học). 100% vốn đầu tư nước ngoài), 37 viện nghiên cứu tiến sĩ, 33 trường cao đẳng bình thường và 2 trường trung cấp bình thường. Hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam có gần 73.000 giảng viên và hơn 16.500 tiến sĩ. Tự chủ đại học ghi nhận những thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức và thực hiện đại học. Đến nay, cả nước có 142/175 cơ sở giáo dục và 34/35 đơn vị trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hoàn thành việc sáp nhập hội đồng quản trị trường học. Chất lượng đội ngũ giảng viên ngày càng được cải thiện, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ năm 2021 là 31,12%, tăng lần lượt là 28,9% và 30% so với năm 2019 và năm 2020. Nghiên cứu khoa học chú trọng đến số lượng và chất lượng công trình. Số lượng bài báo ISI / SCOPUS trong các cơ sở giáo dục đại học năm 2020 tăng gấp 4 lần so với năm 2016. Kết quả kiểm định chất lượng giáo dục đại học từ năm 2016 đến năm 2021 ngày càng cao qua các năm. Tính đến hết tháng 7 năm 2021, cả nước có 170 cơ sở đạt chuẩn trong nước, 241 chương trình đào tạo, 216 chương trình đào tạo và 7 cơ sở cấp chứng chỉ đạt chuẩn quốc tế.

Cho đến nay, sau hơn sáu năm thí điểm tự chủ đại học, đã có khoảng 30 cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam thực hiện cơ chế tự chủ. Nhờ thực hiện tự chủ học phí và mở rộng quy mô các khóa học chất lượng cao, cán cân thanh toán của Trường Đại học Tự chủ bước đầu đã đảm bảo được các khoản chi thường xuyên và các quỹ đã thành lập. Vì vậy, học phí vẫn là một nguồn thu quan trọng

đối với các trường đại học công lập. Tương ứng, tỷ lệ học phí cho các khóa học nâng cao, các khóa học ưu tú và các nhóm đào tạo tiến sĩ tăng gấp đôi, trong khi thu nhập học phí cho các khóa đào tạo không chính thức giảm 5%. Tuy nhiên, thu nhập từ học phí tăng đã tạo áp lực buộc các trường đại học phải đầu tư nhiều hơn vào cơ sở vật chất giảng dạy, học bổng cho sinh viên, nhật ký, viện trợ và các sự kiện riêng, tìm hiểu và nghiên cứu khoa học.

Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách tự chủ tài chính của các trường đại học Việt Nam vẫn còn những hạn chế, như: (i) Tại Nghị định số 60/2021 / NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của trường đại học công lập. – Các đơn vị sự nghiệp, tiếp tục đổi mới và tạo điều kiện để các trường đại học phát huy quyền tự chủ tài chính, chương trình “bình đẳng” nhưng chưa thành lập, có tính đến chi phí thực tế cần thiết để đảm bảo chất lượng đào tạo; thiếu cơ sở để xây dựng hoàn chỉnh, khoa học, khung học phí thực tế, phù hợp Định mức kinh tế – kỹ thuật của các ngành, chuyên ngành; (ii) Thu học phí vẫn là nguồn thu chủ yếu của trường, theo trường hợp tự chủ chiếm hơn 70% tổng thu thu nhập, rủi ro cao, và nguồn thu nhập phụ thuộc phần lớn vào tình hình tuyển sinh. Đây là nguy cơ cao đối với chất lượng đào tạo ở các trường đại học, do việc tuyển sinh phụ thuộc vào nhu cầu xã hội và quy định của nhà nước.

Một số đề xuất về Chính sách tự chủ tài khóa của các trường cao đẳng và đại học

Trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn của một số nước trên thế giới và nền tảng tự chủ tài chính giáo dục đại học của Việt Nam, nghiên cứu đưa ra các khuyến nghị sau:

Trước hết, cơ quan quản lý quốc gia cần ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học, đồng thời rà soát, đồng bộ hóa các quy định của các luật liên quan để tránh chồng chéo giữa các luật. Xây dựng hành lang pháp lý để các trường cao đẳng, đại học tự tin thực hiện việc xây dựng cơ chế tự chủ tài chính theo đúng quy định và hướng dẫn của các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, quản lý của nhà nước đối với các trường cao đẳng và đại học cần được chuyển từ cơ chế quản lý trực tiếp sang cơ chế kiểm soát và hỗ trợ bằng các công cụ vĩ mô. Nhà nước chỉ quy định một mức tối thiểu của các chỉ tiêu tài chính. Các trường đại học dựa vào khả năng tận dụng các nguồn thu nhập để đưa ra mức thu nhập phù hợp. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm giải trình của nhà trường và tăng cường sự giám sát của nhà nước và cộng đồng đối với các trường thông qua các tiêu chuẩn tài chính cụ thể và minh bạch.

Thứ ba, chính phủ cần thiết kế các cơ chế, chính sách cụ thể để phân bổ hợp lý ngân sách công cho các trường đại học. Cần có cơ chế phân bổ nguồn ngân sách theo hình thức khoán kinh phí trên cơ sở đánh giá kết quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu cụ thể hàng năm của Trường (tiêu chí đánh giá có thể là: NCS trên tổng số giảng viên biên chế, số của các bài báo và các trích dẫn của giảng viên và nghiên cứu sinh được công bố quốc tế, số lượng nghiên cứu chuyển giao cho các ngành kinh tế và địa phương, số lượng chứng chỉ chuyên môn trong đào tạo, giải thưởng bổ sung cho kinh phí nghiên cứu huy động từ khu vực tư nhân và các tổ chức quốc tế). Đồng thời, chính phủ nên cung cấp một gói tài trợ cho các trường đại học cho phép hoàn toàn tự chủ, đặc biệt tập trung vào các lĩnh vực sau: (i) tiếp cận các phòng thí nghiệm để nghiên cứu đẳng cấp thế giới; (ii) thu hút sinh viên và học giả quốc tế đến thực hiện nghiên cứu; (iii) Cơ chế tài trợ nghiên cứu của trường đại học; (iv) Kinh phí xây dựng hệ thống xếp hạng quốc tế cho các tạp chí học thuật; (v) Nguồn tài trợ cho nghiên cứu chuyển giao và nghiên cứu công bố quốc tế liên quan đến chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.

Thứ tư, Chính phủ cần nới lỏng giám sát tài chính đối với các trường cao đẳng và đại học, để các trường cao đẳng và đại học hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Thực hiện mô hình quản trị trong đó hiệu trưởng chịu trách nhiệm đối với các trường cao đẳng và đại học, giảm bớt việc ra quyết định tập thể, giúp hiệu trưởng thực hiện các biện pháp quản trị, điều hành theo cơ chế, thu tài chính nhanh chóng và hiệu quả.

Thứ năm, trao quyền hoàn toàn cho các trường cao đẳng, đại học tự quyết định, chủ động xây dựng và tìm kiếm nguồn vốn, tự cân đối thu chi một cách độc lập, minh bạch. Từ đó phát huy thế mạnh hiện có của các trường đại học trong việc tìm kiếm và khai thác các dòng thu nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.

tham khảo

1. Chính phủ (2021). Nghị định số 60/2021 / NĐ-CP ngày 21 tháng 6 năm 2021 Quy định cơ chế tự chủ về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022). Báo cáo Tổng kết Năm học 2020-2021

3. Lê Trung Thành – Đoàn Xuân Hậu (2018). Tự chủ đại học: Từ góc độ tự chủ tài chính của các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam, đã hoàn thành tuyển tập chính sách tự chủ đại học và kỷ yếu hội thảo pháp luật, Báo Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh

4. Phạm Tất Thắng – Nguyễn Thị Tuyết Nga (2018). Hoàn thiện Chính sách pháp luật về Giáo dục Đại học nhằm thúc đẩy quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam, Hoàn thành Kỷ yếu Hội thảo Chính sách và Pháp chế về Tự chủ Đại học, Nhà xuất bản Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh

5. Dow Chung (2020). 2018-2025 Nghiên cứu mô hình và giải pháp tự chủ cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam, tầm nhìn 2030 quốc gia giai đoạn 2016-2020 “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục ở Việt Nam”

6. Wu Tianyong (2021). Tự chủ đại học ở Việt Nam – Xu hướng bất khả kháng, Tạp chí Khoa học Quản lý Giáo dục, Số 1 (29)

7. Mora, J. G. – Villarreal, E. (2001). Phá bỏ các rào cản cấu trúc đối với đổi mới trường đại học truyền thống, Cơ quan quản lý giáo dục đại học, Vol. 13 (2)

8. Taylor, J. (2011). Đánh giá chất lượng nghiên cứu tại các trường đại học ở Vương quốc Anh: bình duyệt hay các chỉ số? , Tạp chí Quản lý Anh, Vol. 22 (2), tr. 202-217

9. Pan’s Lanxiang (2019). Trao quyền tự chủ cho các trường đại học Nhật Bản và trải nghiệm Việt Nam, có thể truy cập từ https://ift.tt/gM5UNW9

ThS. Lương Văn Hà – Khoa Ngân hàng

Bằng tiến sĩ. Ngô Thanh Nguyên