Trước đây, khi chưa có hệ thống trường học, triều đình tuyển chọn nhân tài để phục vụ nhu cầu điều hành đất nước, cho phép một số quan chức cao cấp giới thiệu con cái hoặc người trong làng, quen biết những người có phẩm hạnh cao. Tòa án bổ nhiệm các cơ quan công quyền. Tiêu chí để lựa chọn là người đó phải có phẩm chất “hiếu thuận” (hiếu thuận và liêm khiết). Phương thức tuyển chọn này đã sớm bộc lộ nhiều kẽ hở: nhiều kẻ đưa trẻ em có phẩm chất, đạo đức kém vào các vị trí quan chức, dẫn đến tham nhũng, liên minh, đàn áp người lương thiện, bắt bớ người lương thiện, vô hiệu hóa người có năng lực, v.v., tràn lan.
hình minh họa
Nhận thấy việc tuyển chọn quan lại như trên là có hại cho đất nước, từ năm 1075 sau Công nguyên, vua Lý Nạp đã bắt đầu đặt ra các kỳ thi “Minh kinh, Nho học, tam học” để tuyển chọn nhân tài. Đương thời, các kỳ thi tiến sĩ chưa được quy định, mà các triều đình chỉ mở các kỳ thi để tuyển chọn nhân tài khi xét thấy cần thiết. Triều đại nhà Trần (1225-1400) gọi kỳ thi cao nhất là kỳ thi dành cho học sinh Thái Lan. Mãi đến năm 1232, nhà Trần mới chia những người thi đỗ thành ba loại, gọi là “Tam phẩm” (sự phân loại này tiếp tục cho đến khi kết thúc hệ thống thi cử của Sinology vào năm 1919). Năm 1247, nhà Trần mới đặt ra danh hiệu “Tam khôi”, ba vị cao nhất (Trường Nguyên, Bàng Long, Thám hoa) trong kỳ thi Thái học sinh, từ đây triều đình ra quy định 7 năm một lần. một giáo viên. Nhưng vì tình hình quân đội, quy tắc này chỉ áp dụng cho một số bộ phận. Năm 1256, nhà Trần quy định hai loại trạng nguyên: “Tam Trạng nguyên” (gồm những người đỗ trạng nguyên ở kinh thành Thăng Long và tứ trấn) và “Trường Trạng nguyên” (gồm những người đỗ trạng nguyên ở vùng Thanh Nghệ). 1304 Năm Năm 2009, vua Trần ban cho ba vị quý phi được vào thăm thành Thăng Long trong ba ngày và bắt đầu truy tặng danh hiệu Hoàng giáp cho những người vượt qua vòng 2 của kỳ thi Thái học sinh. Cũng trong năm này, Chen Chao đã ưu tiên cho những học sinh Thái Lan đã qua 4 kỳ thi nhưng không được học lên Giám sát thủ đô quốc gia.
Năm 1396, lần đầu tiên trong lịch sử thi cử Việt Nam, nhà Trần đặt ra khoa thi cử nhân và chia thành thi Hương và thi Hội. Triều đình năm đó cũng có lệ: năm nào dâng hương trước trò, năm sau làm lễ. Hoàng đế đích thân yêu cầu người thắng cuộc phân định đẳng cấp. Thời nhà Hồ (1400-1407), những người thi đỗ vẫn được gọi là Thái học sinh. Năm 1404, He Chao quy định rằng cuộc thi phải được tổ chức ba năm một lần. Những người đã vượt qua kỳ kiểm tra của Hoàng vào tháng 8 năm ngoái có thể trở lại trường để tham gia kỳ thi của Bộ Lễ nghi và tham gia cuộc thi năm sau. Trong thời gian đó, những người này đang học tại trường Guodu Yan.
Năm 1428, sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, Lý Tấtu đã ra lệnh xây dựng các trường học trên khắp đất nước để đào tạo nhân tài. Thủ đô có Guodujian, và chính quyền địa phương có các trường học của chính phủ. Năm 1429, nhà Lê mở khoa thi đầu tiên, gọi là Hàn lâm viện khoa bảng. Năm 1442, các chức vụ sau được thành lập: chức tước (chịu trách nhiệm thi), chánh, phó khảo (chịu trách nhiệm chấm bài), giám khảo, thái giám Chu (chịu trách nhiệm tuần tra, canh gác trong và ngoài phòng thi), thu (phát) đề thi. giấy tờ), Dĩ Phong (ghi điểm), đánh phách, niêm phong), Đăng Lực (chép lại nguyên văn bài thi của thí sinh), Dĩ Phong (đọc lại bản chính và bản sao bài thi của thí sinh rồi đối chiếu lại bài làm). sinh ra). Năm 1442, tiến sĩ (Tiến sĩ) mới đến được tặng mũ tiến sĩ, tổ chức yến tiệc ở vườn Quỳnh Lâm, cung cấp ngựa tốt, quân lính đưa về quê làm lễ bái tổ. Ân điển này được duy trì cho đến thời Nguyễn. Năm 1462, vua Lý Thanh Đường cho tổ chức các kỳ thi nước hoa ở các trường thi khoa khác nhau trên toàn quốc, và quy định cứ ba năm một lần vào các kỳ thi chuột, ngựa, thỏ, gà và biển thì phải tổ chức một thầy giáo. Năm: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Người đỗ 4 khoa thi Hương gọi là Hương Cống. Trong quá trình thi cử có nhiều danh hiệu: Tiến sĩ Tiếp Đệ (gồm có đệ nhất danh, tam khôi, tương đương Trạng nguyên, Bảng nhãn, Đệ tam hoa), tiếp đến là Tr. TS gốc, ứng với Hoàng giáp), tiếp đến là TS. Đệ tam giáp, gọi là Đệ tam giáp đồng TS. Năm 1463, nhà vua ban sắc phong cho 3 vị vua (gọi là Tam hiệu). Cùng năm đó, lễ đặt tên được tổ chức trước cửa nhà Thái Học, trước cửa Đông Hà có treo một tấm bảng màu vàng ghi tên của vị tân tiến sĩ.
Mike Chao (1527-1595) tiếp tục truyền thống đề cao khoa cử thời Lê sơ. Thời Lê Trung Hưng (1533-1789), theo Lê Quý Đôn, triều đình rất quan tâm đến chính sách giáo dục đại học:
“Từ thời Trung cổ đến triều đình hiện nay, đối với những người đỗ tiến sĩ, được đãi ngộ rất tốt và rất hữu dụng: 1- Mũ, đai cân; người về nhà danh giá, có cờ quạt, các vệ binh danh dự, tympanum, phòng nhạc để chào mừng 2- Các quan phụ trách việc bắt dân làng phải xây dựng cung điện cho Tiến sĩ 3- Không chỉ những người đỗ Tam khôi, Chế khoa mới được bổ làm Khoa bảng, mà những người đỗ Đồng Tiến sĩ. cũng sẽ được bổ nhiệm vào Khoa mà không cần phải bổ nhiệm làm quan phủ hay huyện; 4- Trong mỗi khoa, người trẻ nhất thi đậu sẽ được bổ nhiệm làm hiệu trưởng; 5- Được bổ nhiệm làm quan ngoài trấn, thêm vào Thừa Chính hoặc Hiển Sát hai ngành, sẽ được phong làm tể tướng chính thức mà không cần phải giữ chức thứ 2. So với việc lập thư tịch ở Trung Quốc, năm nay ân sủng chưa từng có. ”1. Ngoài khoa thi TS, vua triều Lê Trung Hưng còn mở các khoa: Hoành tráng, Sĩ tử, Văn khoa (trên đậu cử nhân, dưới đậu tiến sỹ), Đông các (sau đậu tiến sỹ,). đã làm việc như một bác sĩ). Các quan chức của Triều đại mới được phép tham gia).
Triều đại Tây Sơn (1788-1802): Vua Quảng Chính chủ trương thành lập trường học ở cấp xã (làng), xác lập địa vị của xã hội học. Thời Nguyễn (1802-1945), vua Gia Long mở khoa thi nước hoa năm 1807, nhưng không tổ chức được khoa thi. Khi đó bà đã thi đỗ bốn kỳ, họ Hoàng vẫn được gọi là Hoàng Công, sau ba kỳ thi thì được gọi là Đạo. Đến năm 1821, Shannon đã chuyển từ bằng cấp thành cử nhân; thay đổi tiểu sử thành bằng cử nhân. Khoa thi đầu tiên của triều Nguyễn được mở vào năm 1822. Từ năm 1829, một văn bằng cao đẳng được bổ sung (dành cho những thí sinh có điểm dưới bậc TS thứ ba). Năm 1848 Vương công tử lên ngôi, mở các khoa thi Hội danh giá, đến năm 1851 mở trường Cát Tử cho các cử nhân, học sinh trường Quốc Tử Giám, tri huyện, đào ngũ, tiến sĩ, phó bảng. Chưa được bổ nhiệm làm quan, Cử nhân và Cử nhân đã qua các kỳ thi. Người được khoa này phong cho Hoành là Tiến sĩ xuất thân, một người là Cát Sĩ tiên sinh, thứ hai là đời thứ hai, và người thứ ba là đời thứ hai tương đồng. Năm 1865, triều đình mở lại Học viện Thi sĩ. Năm 1869 và 1884, Tổ chức Ân xá được thành lập.
Mặc dù hệ thống học thuật của Sinology còn nhiều hạn chế, chế độ quân chủ trong những năm qua đã giúp những người trẻ tiến bộ thực sự thông qua việc học tập thực tế và khuyến khích những tài năng thành văn, ở Việt Nam trong hàng nghìn năm. Không chỉ triều đình có nhiều chính sách ưu đãi học sĩ, thể hiện chính sách khuyến học của nhà nước mà các làng thuộc tỉnh Bắc Ninh xưa nay cũng có nhiều việc làm thể hiện tinh thần khuyến học của con em trong làng.
Theo số lượng đất công trong làng, một số ruộng được sử dụng làm đầu ra của cây trồng và chi phí đào tạo giáo viên. Số lĩnh vực này được gọi là một lĩnh vực nghiên cứu. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhất là trong thời kỳ cải cách ruộng đất, ruộng ở nông thôn được chia cho nông dân và trở thành ruộng đất chung của các hợp tác xã nông nghiệp. Từ đó về sau không có chỗ học làm ruộng. Những người có trình độ học vấn trung học trở lên được miễn dịch. Những người có trình độ từ cử nhân trở lên, khi trong làng có việc, đều được bố trí ngồi trang trọng ở nhà công, được cử làm Trưởng thôn, Đốc lý, với quân hàm tướng quân, tham gia vào làng, tiểu bang, và các hiệp hội văn học cấp huyện. Những người đỗ tiến sĩ sẽ được làng, xã và tổng quản trên đường từ tỉnh hoặc từ huyện (nếu xa tỉnh) đón trên đường về quê. Những người có trình độ cao nhất trong làng được làng mời soạn thảo văn học và làm giám khảo cuộc thi đọc mục lục của làng. Ngày xưa, hầu như làng nào, bang nào, huyện nào cũng có văn, xã, huyện nào cũng có văn, nơi thờ Khổng Tử, Du Pei (bốn học trò xuất sắc của Khổng Tử), mười nhà triết học (10 học trò). Khổng Tử là bậc nhất) và các bậc hiền triết của làng, bang, huyện. Hàng năm, lễ tế được tổ chức tại các gian đình vào các tháng giữa xuân (tháng 2) và trung thu (tháng 8).
Có thể thấy, trước đây, mặc dù chưa có hội khuyến học các cấp nhưng trên thực tế, công tác khuyến học ở cả nước và ở các thôn làng rất vững chắc và hiệu quả.