Bài 1Bài 2Bài 3Bài 4Bài 5Bài 6Bài 7Bài 8Bài 9Bài 10Bài 11Bài 12Bài 13Bài 14Bài 15Bài 16Bài 17
BÀI 1: GỢI Ý SUY NGHĨ VỀ VAI TRÒ GIÁO LÝ VIÊN
Chúa Kitô bây giờ chẳng có thân xác, ngoại trừ thân xác của bạn, Không tay, không chân trên quả đất này, ngoại trừ tay chân của bạn. Qua đôi mắt của bạn, người nhìn và đem sự nhân từ của Người đến cho thế giới. Qua đôi chân của bạn, Người đi làm chuyện lành. Qua đôi tay của bạn, Người chúc phúc cho cả thế giới. Tay của bạn là tay của Người, Chân của bạn là chân của Người, Mắt của bạn là mắt của Người Bạn là thân thể của Người. Chúa Kitô bây giờ chẳng có thân xác, ngoại trừ thân xác của bạn, Không tay, không chân trên quả đất này, ngọai trừ tay chân của bạn. Qua đôi mắt của bạn, Người nhìn và đem sự nhân từ của Người đến cho thế giới. Chúa Kitô bây giờ chẳng có thân xác trên mặt đất, ngoại trừ thân xác của bạn.
Thánh Têrêsa D’Avila
CON HÃY LÀ BÀN TAY CỦA CHA
Câu chuyện xảy ra tại một thành phố nhỏ nước Pháp vào thời Đệ Nhị Thế Chiến. Một anh lính đi ngang qua một ngôi nhà thờ đã bị tàn phá vì chiến tranh. Khi bước qua những đống gạch vụn nằm ngổn ngang trên nền nhà, anh cố gắng hình dung ra hình ảnh của ngôi thánh đường trước khi bị đổ nát. Anh đưa mắt nhìn quanh và bắt gặp một pho tượng vẫn còn đứng vững. Đến gần hơn để nhìn cho kỹ và anh nhận ra đó là pho tượng Chúa Giêsu với hai cánh tay giang rộng như muốn ôm cả thế giới. Pho tượng vẫn còn nguyên vẹn, chỉ trừ đôi bàn tay bị gãy. Trầm lặng một vài phút trước bức tượng sứt mẻ đó, bỗng dưng anh cảm thấy như có tiếng Chúa nói với anh : “Từ nay con hãy là bàn tay của Cha.” Cảm động trước lời mời gọi đó, anh liền lấy một viên đá, viết hàng chữ ấy trên một tấm gỗ và đặt dưới chân pho tượng Chúa Giêsu.
Như ngôi nhà thờ kia bị tàn phá và đổ nát vì chiến tranh, biết bao tâm hồn con người ngày nay cũng đang bị tan nát và mất mát trước cám dỗ và những ảnh hưởng không tốt của một thế giới sa đọa, cả những tâm hồn tan nát vì thiếu tình thương của gia đình và của những người thân. Đứng trước những tình cảnh này, Chúa Kitô đang kêu mời chúng ta để trở thành những đôi tay của Chúa, giúp xây dựng lại ngôi đền thờ của Ngài trong tâm hồn của mỗi con người hôm nay.
Chúng ta hãy là bàn tay của Chúa để xoa dịu những khổ đau của người trẻ đang bị hắt hủi và thiếu tình thương.
Hãy là đôi chân của Chúa Kitô, để đồng hành với những tâm hồn đang gặp khó khăn về tinh thần.
Hãy là đôi mắt của Chúa Kitô, để thấy và cảm thông được nỗi thống khổ của những kẻ không nhà.
Hãy là đôi tai của Chúa Kitô, để nghe được những tiếng khóc cô đơn của những người vô gia đình và bị xã hội ruồng bỏ.
Hãy là con tim của Chúa Kitô, để yêu thương hết mọi người.
Hãy là chính Chúa Kitô sống động nơi môi trường chúng ta đang sống : ngoài đương phố, nơi trường học, trong gia đình và ngay cả những nơi ồn ào, xáo trộn nhất trong xã hội.
Chúng ta hãy dừng lại để nhận ra Chúa Kitô trong mọi người và mọi biến cố của cuộc đời, như câu chuyện của cậu bé bán báo dưới đây :
Có rất nhiều người đang đợi xe điện tại một trạm kia. Ai cũng hối hả mong cho tới nơi mình muốn đến. Khi xe vừa dừng bánh, người ta chen lấn, đổ xô về phía cửa xe. Trước sự hỗn loạn đó, người ta đã làm ngã một em bé đang đứng bán báo gần cửa xe, những tờ báo trên đôi tay bé nhỏ của em rơi hết xuống đất. Trong những người chen chúc nhau trên xe có một người khá đứng tuổi, ăn mặc rất lịch sự. Mặc dù cũng vội vã, ông đứng lại để nhìn em bé, và ông nhận ra là em bé bán báo bị mù. Ông nói lời xin lỗi và cúi nhặt từng tờ báo lên cho em mà không quan tâm đến việc mình sẽ lỡ mất chuyến xe. Biết ơn cử chỉ tốt của ông, em bé hỏi : “Ông có phải là Chúa Giêsu không?”.
Ước gì qua những suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta, người ta sẽ nhận ra được Chúa Kitô đang sống động trong con người của chúng ta, kể cả những người bị mù với con mắt Đức Tin.
12 ĐIỀU TÂM NIỆM CỦA GIẢNG VIÊN GIÁO LÝ
1. Nói với niềm xác tín và nhiệt tình. Đặt tâm tình vào sứ điệp truyền đạt.
2. Nói với Chúa về học sinh nhiều hơn là nói với học sinh về Chúa.
3. Khuyến khích các em làm điều tốt, và giúp mỗi em hiểu rằng các em rất đặc biệt và có thể giúp ích cho người khác.
4. Cố gắng thăng tiến khả năng chuyên môn.
5. Tạo khung cảnh thích hợp giúp các em học bằng cách thay đổi cách trang trí lớp học hằng tuần.
6. Soạn bài cẩn thận và đến lớp đúng giờ.
7. Đón nhận tất cả và từng học sinh.
8. Làm cho các em cảm thấy lớp học như gia đình mà mỗi em là một thành viên.
9. Liên lạc và tiếp xúc thường xuyên với phụ huynh.
10. Kiên nhẫn và trung thành dù gặp khó khăn.
11. Giữ đạo đức của nhà giáo.
12. Chấp nhận những giới hạn của mình, và tin tưởng Chúa Thánh Linh đang hoạt động trong mình.
LỜI NGUYỆN CỦA GIÁO LÝ VIÊN
Lạy Chúa, Chúa đã chọn các Tông Đồ và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân, như xưa Chúa đã dùng các Tổ Phụ và các Tiên Tri, để loan báo các thánh chỉ của Chúa.
Xin Chúa hãy đón nhận chúng con là những giảng viên giáo lý, để chúng con đem Lời Chúa cho mọi người. Cho chúng con biết can đảm để dấn thân, khiêm tốn để học hỏi, và quên mình để phục vụ.
Xin cho chúng con biết dùng lời nói và hành động, để làm chứng cho đức tin mà chúng con đang rao giảng.
Ước gì qua chúng con, Chúa được nhận biết và yêu mến. Amen.
BÀI 2 GIÁO LÝ VIÊN LÀ AI ?
Giáo lý viên là người thi hành một sứ mệnh chính thức, quan trọng và siêu nhiên, được Chúa Kitô ủy thác qua Giáo Hội. Vì vậy các Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đều là những giáo lý viên có trách nhiệm thi hành sứ vụ này.
Giáo lý viên không phải chỉ là người dạy, nhưng trước hết phải là một chứng nhân (DGL 9.66), một chứng nhân tình yêu. GLV không phải chỉ là người truyền đạt những kiến thức về Thiên Chúa, nhưng phải là người truyền thông một kinh nghiệm gặp gỡ với Thiên Chúa. Nói cách khác giáo lý viên là người luôn tìm cách khám phá ra tình yêu Chúa trong cuộc đời mình cũng như khám phá ra điều gì Chúa đang chờ đợi nơi mình, để nhờ đó dễ dàng giúp người khác tìm gặp và yêu mến Chúa.
Trong một xã hội đa tôn giáo và văn hóa, giáo lý viên thường gặp khó khăn là phải đối diện với những tư tưởng, những niềm tin khác biệt, và có cả những chống đối bên trong và ngoài Giáo Hội. Nhưng với cái nhìn đức tin, việc dạy giáo lý mang đến một niềm vui lớn lao : đó là niềm vui được cộng tác với Giáo Hội trong việc đem Chúa đến với các tâm hồn ; niềm vui được góp phần nhỏ bé của mình trong việc đổi mới lòng con người và niềm vui được đổi mới chính bản thân mình trong đức tin.
Nhưng trước khi dấn thân vào sứ mệnh quan trọng này, giáo lý viên không thể không biết đến những điều căn bản liên quan tới nhiệm vụ phải thi hành. Điều này đòi hỏi giáo lý viên phải được huấn luyện kỹ càng những chiều kích căn bản cho sứ vụ mình. Việc huấn luyện khai tâm và trường kỳ cho giáo lý viên được triển khai theo 4 trục chính sau đây :
1. Phát triển đời sống thiêng liêng : Giáo lý viên là người giúp người khác thăng tiến đời sống làm người và làm con Thiên Chúa trong Giáo Hội theo khuôn mẫu Đức Giêsu. Do đó giáo lý viên phải tìm mọi cách để đào sâu một kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa.
2. Huấn luyện nhân bản : Đời sống thiêng liêng, kiến thức thần học và việc am tường các quy tắc sư phạm là những yếu tố rất quan trọng trong việc dạy giáo lý. Nhưng nếu có tất cả những điều đó mà thiếu một nền nhân bản cần thiết thì e rằng giáo lý viên sẽ gặp rất nhiều trở ngại trong phận vụ của mình. Việc huấn luyện nhân bản cho giáo lý viên phải liên tục và nghiêm túc. Một số người có thiện chí, nhiệt tình trong sứ mệnh, nhưng vì thiếu các đức tính nhân bản mà đã vô tình gây đổ vỡ hoặc làm cản trở cho những người thiện chí khác.
3. Trau dồi những kiến thức thần học : Việc trau dồi kiến thức thần học dựa trên sự hiểu biết, lắng nghe và thi hành Lời Chúa. Lời Chúa giúp hiểu các Mầu nhiệm đức tin, chân lý về Thiên Chúa, về con người và về số phận của con người một cách sinh động và riêng tư. Việc huấn luyện này không nhằm phát triển những kiến thức trừu tượng, nhưng là đón nhận ánh sáng của mạc khải và minh họa ra bằng cuộc sống cụ thể. Những kiến thức thần học sau khi được học hỏi, phải được truyền đạt bằng những ngôn từ đơn giản, chính xác và cụ thể.
4. Huấn luyện sư phạm : Việc huấn luyện sư phạm giúp giáo lý viên dạy giáo lý có hiệu qủa. Nhờ việc ứng dụng các phương pháp, các nguyên tắc sư phạm, các quy luật tâm lý và suy luận mà giáo lý viên dễ dàng truyền đạt nội dung của giáo lý hơn.
Bốn trục chính trong việc huấn luyện giáo lý viên sẽ được đề cập tới trong 4 phần của khóa học :
– Phần I : giới thiệu một Linh đạo cho giáo lý viên, tức là con đường thiêng liêng hay con đường nên thánh của giáo lý viên.
– Phần II đưa ra một số đức tính nhân bản cần thiết giúp việc dạy giáo lý có hiệu qủa.
– Phần III đề cập tới một số điểm thần học căn bản và một số chỉ dẫn của Giáo Hội trong việc dạy giáo lý.
– Phần IV bàn đến một vài nguyên tắc và phương pháp dạy giáo lý hiện hành khởi đi từ phương pháp sư phạm của Đức Kitô, đồng thời giới thiệu một tiến trình dạy giáo lý
BÀI 3 PHẦN I: LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN
LINH ĐẠO LÀ GÌ ?
Nói đến linh đạo là nói đến con đường nên thánh, con đường thiêng liêng của một tập thể hay một cá nhân, đã được vạch ra và được sống dưới ơn soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Trong lãnh vực Thần học, Giáo Hội phân biệt Thần Học Tín Lý, Thần Học Luân Lý và Thần Học Tu Đức. Linh đạo nằm trong Thần học Tu đức, là ngành dạy người ta làm sao để hoàn thiện hóa cuộc sống trần thế, không phải chỉ là chu toàn các luật lệ, nhưng còn với những phương pháp giúp con người sống tốt đẹp hơn để có thể đạt tới sự hoàn thiện.
Ơn gọi nên thánh là ơn gọi chung của mọi kitô hữu. Tất cả đều được mời gọi nên thánh nhưng mỗi người có thể nên thánh theo cách thức riêng tùy hoàn cảnh và bậc sống của mình : một linh mục coi xứ, một tu sĩ chiêm niệm, một tu sĩ tông đồ, một giáo dân giữa chợ đời hay sống trong tổ ấm, mỗi người đều có những nẻo đường, những điều kiện thuận lợi riêng để nên hoàn thiện.
Trong Giáo Hội, ta thường nghe nói tới linh đạo của các dòng tu hay của một Hội tông đồ nào đó, nghĩa là bất cứ một tổ chức tôn giáo nào cũng có những đường lối đặc biệt để giúp nhau nên hoàn thiện hơn. Một cá nhân cũng có thể khám phá ra đường lối riêng để nên thánh (như thánh Têrêsa, thánh Phanxicô v.v…). Trong những nẻo đường nên thánh ấy, có nẻo đường của giáo lý viên. Dù họ hiến thân cả đời cho việc dạy giáo lý hay chỉ phục vụ một thời gian thì công việc dạy giáo lý là con đường nên thánh của họ.
Nói chung, mỗi tổ chức, mỗi bậc sống trong Giáo Hội đều có thể được ví như một loài hoa, có màu sắc khác biệt với các loài hoa khác. Mỗi loại hoa đều có những hương vị riêng của mình, nhưng tất cả đều tươi đẹp và tạo ra nét duyên dáng của Giáo Hội. Mỗi linh đạo có một tinh thần riêng, một phương cách sống và hoạt động tông đồ đặc biệt, nhưng tất cả đều đòi buộc người kitô hữu phải đạt tới sự trọn lành.
LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN
Nhìn lại lịch sử Giáo hội qua nhiều thế kỷ, từ Đức Kitô, đến các tông đồ, từ thời các giáo phụ rồi đến chúng ta ngày nay, biết bao thế hệ kitô giáo đã không mệt mỏi sống và truyền đạt cho người khác những gì họ đã nhận lãnh nơi Đức Kitô. Chính Đức Kitô là Người Thầy duy nhất[1] mà qua lời giảng dạy, Ngài đã truyền đạt một con đường sống : “Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời” (Lc 6, 36). Đó là cùng đích của đời sống kitô hữu.
Thật ra, con đường nên thánh của giáo lý viên không ở ngoài con đường chung cho mọi kitô hữu là sống niềm tin-cậy-mến, cầu nguyện và thực thi các nhân đức của Tin mừng. Nhưng theo chức năng của mình, giáo lý viên phải sống linh đạo đó ở một trình độ cao hơn, nghĩa là linh đạo của họ phải là một bổn phận cấp bách hơn. Linh đạo này không chỉ dựa vào sự hiểu biết thần học hay những phương pháp dạy giáo lý, tuy những điều này là cần thiết nhưng không thuộc về bản chất linh đạo của giáo lý viên. Vậy ta có thể nói rằng linh đạo giáo lý viên hệ tại việc sống những đòi hỏi của Tin mừng. Đó là :
– Yêu Chúa hết lòng (Lc 10, 27) – Vâng lời người đại diện Chúa (Lc 10, 16) – Mỗi ngày nên tốt hơn (1 Thess 4, 3) – Làm tông đồ để cho mọi người biết Chúa và được cứu độ (1 Tim 2, 4)
Nói tóm lại, linh đạo giáo lý viên là sống thật tốt tương quan của mình với Thiên Chúa, với Giáo Hội và với con người được biểu lộ qua những thái độ yêu mến Chúa Kitô, gắn bó với Giáo Hội và tìm cách thăng tiến đời sống con người.
Ở đây chúng ta không liệt kê hết những thái độ cần thiết của giáo lý viên, nhưng chỉ nhấn mạnh một số điểm đặc biệt cần thiết cho thời đại ngày nay. Một thời đại của những biến đổi không ngừng trong đời sống đức tin và trong những mối tương quan của con người.
Trong chương I, chúng ta đề cập đến mối tương quan của giáo lý viên với Thiên Chúa. Giáo lý viên là người cảm nghiệm sâu sa được tình yêu Thiên Chúa và luôn sống tình con thảo với Người. Đây là điều kiện tiên quyết để có thể đem Chúa đến cho người khác.
Chương II nói đến bổn phận của giáo lý viên đối với Giáo Hội. Giáo lý viên là người được Giáo Hội sai đi làm việc cho Chúa. Do đó người được sai phải luôn gắn bó và làm theo ý của người sai mình.
Trong chương III, chúng ta nêu lên một số điều kiện phải có nơi giáo lý viên trong việc thăng tiến chính bản thân mình và mưu tìm hạnh phúc cho người khác, nhờ đó đời sống tâm linh thống nhất được với những hoạt động bên ngoài.
[1] Tông Huấn Dạy Giáo Lý (DGL) 8
BÀI 4 CHƯƠNG I : YÊU MẾN CHÚA KITÔ
Hằng ngày, qua kinh Lạy Cha, chúng ta tuyên xưng Chúa là Cha và mọi người là anh em. Như vậy đạo của chúng ta là bổn phận làm con Chúa và làm anh em của mọi người. Nói một cách giản dị : chúng ta chỉ cần sống đúng một đứa con ngoan, một người em tốt. Nhưng làm con ngoan thì phải sống thế nào? Trước hết giáo lý viên phải có lòng tôn kính Thiên Chúa, nghĩa là phải tôn thờ Ngài cách tuyệt đối và luôn chọn Ngài như điểm tựa duy nhất của đời mình.
1. ĐẶT CHÚA LÊN TRÊN HẾT
Trong cuộc sống giáo lý viên, ít khi có tình trạng một người hoàn toàn loại Chúa ra khỏi cuộc đời hay công việc của mình, nhưng điều thường xẩy ra là có những giáo lý viên không tôn kính Ngài cho đủ, nghĩa là không đặt Chúa vào đúng vị trí của Ngài. Họ dễ đặt Thiên Chúa ngang hàng hơn kém giữa biết bao giá trị khác của đời sống. Cuộc đời con người thường được hướng dẫn hay bị chi phối bởi nhiều hấp lực, mỗi lúc một hấp lực khác nhau. Vì vậy, khía cạnh thứ nhất đòi nhiều cố gắng trong đời sống của giáo lý viên là đặt Chúa lên trên hết bằng cách quy tụ tất cả cuộc sống về Thiên Chúa như đỉnh cao duy nhất để Ngài hướng dẫn và chi phối tất cả hoạt động của mình. Chúng ta quan sát hai sơ đồ sau đây :
– Sơ đồ 1 : Chúa Giêsu được xếp ngang hàng giữa các giá trị khác – Sơ đồ 2 : Chúa Giêsu chi phối mọi sinh hoạt của đời sống
Sơ đồ thứ nhất diễn tả một cuộc sống đặt Thiên Chúa ngang hàng với mọi tạo vật khác. Chỗ đứng của Thiên Chúa cũng là chỗ đứng của bao vấn đề trong cuộc sống. Ngài không được tôn kính cho đủ và Ngài cũng không có ảnh hưởng gì đặc biệt trên cuộc sống của họ. Trong khi đó sơ đồ hai biểu thị cuộc sống của những người biết đặt Chúa lên trên hết, chính Ngài chi phối, điều khiển mọi hành vi, mọi cung cách sống của mình. Đó là những người biết đặt Thiên Chúa vào đúng vị trí của Ngài.
Sau những ngày tháng hăng say trong việc dạy giáo lý, chắc chắn mỗi giáo lý viên đều xác tín rằng : Sứ mệnh của chúng ta không có nghĩa gì nếu không phải là do Thiên Chúa gợi ý cho chúng ta. Lời rao giảng của chúng ta không có nghĩa gì nếu không phải là chính Thiên Chúa nói. Sự tận tâm của chúng ta không có nghĩa gì nếu không phải chính Thiên Chúa đã làm cho nó phong phú thêm lên. Như vậy nền tảng của mọi việc tông đồ chính là Thiên Chúa và cái trục giao liên giữa giáo lý viên với Thiên Chúa chính là lòng yêu mến.
2. YÊU MẾN
Nếu giáo lý viên biết quy tụ tất cả cuộc sống về Chúa đã là điều tốt, nhưng như thế vẫn chưa đủ, mà còn cần phải móc nối được mối dây liên lạc cá nhân thân tình với Thiên Chúa nữa, vì nếu không có được mối dây thân tình mật thiết với Chúa thì cũng rất khó quy tụ tất cả cuộc sống về Chúa được. Vậy cụ thể, giáo lý viên biểu lộ lòng yêu mến Thiên Chúa bằng cách :
2-1. Học hỏi và sống Lời Chúa :
Giáo hội được nuôi dưỡng và được sống bằng Lời của Chúa, vì thế Giáo hội luôn kêu mời chúng ta cố gắng học hỏi và khám phá trong kho tàng Thánh Kinh, những chân lý giải thoát và dẫn đưa tới ơn cứu độ. Vậy để sống Lời Chúa, giáo lý viên cần có những thái độ sau :
– Đọc Lời Chúa theo sự chỉ dẫn của Giáo hội để có thể tìm ra ý nghĩa đích thực. Mỗi người, tùy theo nhu cầu tâm linh và trình độ, có thể hiểu tới mức độ nào đó điều Chúa muốn nói với mình, nhưng sự hiểu biết này phải luôn nằm trong sự giải thích của Giáo hội.
– Giáo lý viên đọc Lời Chúa với tâm tình của Phêrô : “Lạy Chúa chúng con biết theo ai ? Chúa mới có những Lời ban sự sống đời đời ”(Jn 6, 67-68). Tâm tình này xác định mục đích và mọi sinh hoạt của đời sống đều phải quy chiếu về Đức Kitô. Ngài đang chờ đợi, từng người cũng như tất cả, để giúp chúng ta sống gắn bó với Ngài.
– Đọc Lời Chúa như đọc lời tâm sự của một người bạn chí thiết muốn nói riêng với mình trong giây phút này, trong hoàn cảnh cụ thể, để thấy Lời Chúa luôn mới mẻ, thích hợp, và qua đó, ta để cho Lời Chúa chất vấn cuộc sống của ta. Như vậy giáo lý viên đón nhận Lời Chúa như một hồng ân, hồng ân này biến đổi toàn bộ đời sống giáo lý viên trở thành nhân chứng cho Lời Chúa.
– Lời Chúa không phải chỉ để đọc, để nghiên cứu, để hiểu, nhưng là lương thực cần phải được đón nhận với tất cả sự khao khát của tâm hồn. Vì vậy, Lời Chúa phải thực sự đi vào cuộc sống, nghĩa là làm đổi mới được cung cách sống của mình, lúc đó ta mới nói được là đã sống Lời Chúa cách cụ thể và sinh động.
– Giáo lý viên tăng thêm nhưng dịp nghe và học hỏi Lời Chúa, đặc biệt qua những sinh hoạt phụng vụ và chia sẻ Lời Chúa để Lời Chúa thấm nhập thêm mãi vào từng biến cố lớn nhỏ trong đời sống và tự do hành động trong chúng ta. Một khi được Lời Chúa hướng dẫn, chúng ta mới có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống thường nhật và mới có thể sống thật sự tình con thảo với Người.
2-2. Tham gia tích cực vào việc cử hành phụng vụ
Bên cạnh những việcđạo đức được Giáo hội khuyến khích, có những kinh nguyện và nghi thức được Giáo Hội lập ra và được nhận làm phương thế thờ phượng chính thức gọi là phụng vụ như Thánh Lễ, các Bí Tích và Kinh Thần Tụng. Như vậy phụng vụ là sự thờ phượng toàn diện của Nhiệm thể Chúa Kitô. Nói rõ hơn, phụng vụ là sự thờ phượng của Đức Kitô dâng lên Chúa Cha. Ngài dâng với tư cách là Đấng Cứu thế và là đầu của Giáo hội.
Phụng vụ luôn hướng về Thiên Chúa, có mục đích tôn vinh Thiên Chúa nhưng cũng để thánh hóa con người. Ta có thể nói : thánh hóa loài người là điều kiện tiên quyết để thờ phượng Chúa. Vậy toàn thể Giáo hội do ơn gọi của mình phải thờ phượng Chúa, mà ơn gọi của Giáo hội cũng giống như ơn gọi của Israel xưa là trở thành “Dân Tư tế” (Xh 19,6). Theo thánh Phêrô, Dân Tư tế thì phải tôn thờ Chúa qua việc “dâng lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa”(1 P 2,5). Lễ tế thiêng liêng này Dân Tư tế phải dâng trong suốt cuộc đời, nhưng lễ tế đó đạt tới tột đỉnh và được hoàn tất trong phụng vụ.
Hiểu được sự quan trọng của phụng vụ trong đời sống kitô hữu, giáo lý viên chăm chỉ tham gia việc cử hành phụng vụ cách chủ động và ý thức. Sự tham gia chủ động và ý thức này được diễn tả :
– Qua việc đối đáp : Mọi sinh hoạt phụng vụ của Giáo hội đều có tính cách cộng đồng. Vì vậy mọi tín hữu phải tham gia cách chủ động và có ý thức. Việc tham gia tích cực không những bằng tâm tình bên trong nhưng còn bằng việc hòa hợp một lòng một ý trong lời kinh tiếng hát cũng như những lời đối đáp giữa chủ tế và cộng đoàn trong khi cử hành nghi lễ. Do đó phải tránh sự thụ động hoặc ngồi im lặng nhìn như khách bàng quan.
– Qua thái độ và cử chỉ : Phụng vụ không phải chỉ là tâm nguyện, nhưng còn được diễn tả bằng thái độ của thân xác. Những thái độ cử chỉ này không có tính cách tự phát nhưng được quy định và luôn mang một ý nghĩa nào đó.
Thí dụ : Đứng : diễn tả lòng tôn kính, suy tôn. Ngồi : là tư thế của người lắng nghe, đón nhận. Qùy : là thái độ cầu nguyện, đồng thời là biểu hiệu của lòng sám hối, tự hạ. Cúi mình : diễn tả sự phủ phục tôn thờ.
– Qua tinh thần hiệp thông: Mọi người tham dự phải đồng tâm nhất trí trong một tinh thần, một tình huynh đệ. Kinh thánh đã nhắc nhở chúng ta phải có tinh thần này : Hãy làm hòa với nhau trước khi dâng thánh lễ (Mt 5, 23). Phải dẹp bỏ những tranh chấp, ích kỷ gây tiếng xấu (1Cor 11, 21). Do đó, cần giữ được tinh thần hiệp nhất, đại đồng trong cách diễn tả đức tin và cầu nguyện, vì ở đâu có sự đồng tâm nhất trí thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị (Mt 18, 20). Giáo lý viên là người giúp cho người khác tham dự cách hữu hiệu vào các giờ cử hành phụng vụ thì trước tiên phải là người hiểu và sống phụng vụ cách tích cực.
2-3. Cầu nguyện :
Giáo lý viên sống tương quan mật thiết với Chúa Kitô không những trong việc hăng say học hỏi Lời Chúa và trong các sinh hoạt phụng tự, nhưng còn phải trải dài trong suốt đời sống, nghĩa là một đời sống kết hợp với Chúa trong tinh thần cầu nguyện. Chúng ta cần phân biệt việc cầu nguyện và tinh thần cầu nguyện. Việc cầu nguyện là dành một số giờ trong ngày, trong tuần để cầu nguyện riêng hay để làm các phận vụ thiêng liêng của một người kitô hữu. Tinh thần cầu nguyện là bầu khí kết hợp thân mật với Chúa bao trùm cả ngày sống, 24/24 giờ. Nhưng bằng cách nào ?
Giáo lý viên, là người làm việc cho Chúa, nên không thể chỉ biết đi lễ hay tham dự các bí tích theo luật buộc, rồi cả ngày chúng ta loay hoay một mình với bao công việc. Điều quan trọng là làm sao biến đời mình thành một lời kinh liên lỉ. Cầu nguyện đích thực là một phương cách sống, sống thật tốt lành dưới sự hiện diện của Thiên Chúa. Người biết khám phá và sống sự hiện diện của Thiên Chúa thì thấy mình hạnh phúc vì đã khám phá ra Thiên Chúa là căn nguyên của mọi nguồn sống và mọi sinh hoạt cuộc đời.
Thật ra, nếu chúng ta biết tìm đúng nguồn mạch của đời sống, chúng ta sẽ thấy Chúa chan hòa trong từng phút giây. Và bất cứ ở đâu, dù có bận rộn với bao công việc, dù trong khi cầu nguyện cũng như lúc làm việc, trong khi buồn rầu hay lúc vui thỏa, Đức Kitô cũng ở đó, Ngài ở bên và đồng hành với ta trong mọi nơi mọi lúc. Sống tâm tình ấy, các hoạt động bên ngoài của chúng ta cũng được biến thành một lời cầu nguyện rất cụ thể, đơn sơ và sống động.
Tóm lại, Giáo lý viên là người mang Chúa đến cho người khác nên điểm đặc trưng của tất cả cuộc đời của họ là tình mến Chúa Kitô. Lòng mến này tiến triển theo ba cách :
• Hiện diện : Sự hiện diện của Chúa là nguồn hứng khởi, là sức mạnh nâng đỡ, là điểm chi phối toàn bộ đời sống giáo lý viên.
• Gặp gỡ đối thoại : Gặp Chúa để trò chuyện để khen ngợi, cám ơn, xin lỗi, xin giúp đỡ và nhất là để chia sẻ tâm tư. Nhờ vậy giáo lý viên được biến đổi trong tâm tình, lý tưởng, tiêu chuẩn sống để trở nên giống Chúa và khắng khít với Chúa hơn. Đây là mục đích của các giờ cầu nguyện và suy ngắm.
• Nên một với Chúa : Trong một ngày sống, giáo lý viên cần tìm những giây phút thinh lặng để cảm nghiệm thật sâu sa sự hiện diện của Chúa, để nghe Chúa nói và để nói với Chúa. Được như thế, giáo lý viên sẽ luôn sống trong tình hiệp thông với Chúa và trở nên một với Ngài.
3. VÂNG THEO Ý CHÚA
Nhìn vào đời sống Giáo hội, mỗi vị thánh có một bộ mặt riêng, không ai giống ai ; mỗi tín hữu có một cách sống đặc biệt, không ai có thể sống đời sống của người khác. Nhưng trong muôn vàn cái khác biệt ấy, có một con đường chung cho tất cả, đó là nên giống Chúa Giêsu bằng việc tuân giữ các điều Chúa truyền dạy (Jn 15, 10). Điều này có nghĩa là sống tốt giây phút hiện tại, là tận dụng cách khôn ngoan thời giờ Chúa ban, là làm đầy đủ bổn phận trong tinh thần trách nhiệm.
Dụ ngôn trong Tin mừng Matthêu 21, 28-30, kể người cha sai hai người con đi làm vườn nho, chúng ta nghĩ gì khi thấy Người anh trả lời : “ Con không muốn đi ” nhưng sau đó hối hận và đi. Còn người em đáp ngay : “ Vâng con sẽ đi ” nhưng rồi lại không đi ? Có lẽ cuộc đời chúng ta nhiều khi cũng khởi sự bằng tiếng vâng rồi sau lại không làm, hoặc khởi sự bằng tiếng không, rồi sau đó tiếng vâng của đức tin mới thốt ra.
Dụ ngôn trên cho chúng ta một bài học về thái độ vâng theo tiếng Chúa. Thái độ này có thể làm tăng hay giảm giá trị của công việc. Dù chúng ta có làm một công việc lớn lao, nhưng làm vì miễn cưỡng, làm cho qua lệ, thì công việc ấy không có giá trị bao nhiêu. Nhưng trong bất cứ việc gì, chúng ta làm với tinh thần vui vẻ, hăng hái, vì muốn làm đẹp ý Chúa, việc đó sẽ trở nên nhẹ nhàng và có giá trị lớn, cho dù việc đó rất tầm thường và nhỏ bé.
Khi đọc dụ ngôn này, có lẽ có người trong chúng ta sẽ thấy rằng mình không thích thái độ của cả hai người con trên, mình muốn là người con thứ ba, nghĩa là người biết trả lời vâng với cha mình, và mau mắn đứng dậy, vui vẻ thi hành điều đã hứa với cha. Điều đó rất đúng và đây chính là người con gương mẫu, là người con mà tất cả chúng ta phải mong muốn trở nên như vậy. Là giáo lý viên, chúng ta ý thức hơn về tinh thần sẵn sàng tự nguyện và thái độ dứt khoát làm điều hợp ý Chúa.
Trong cuộc sống, chúng ta có rất nhiều mối bận tâm, nhiều lo lắng về cả tinh thần lẫn vật chất. Nhưng mối bận tâm đầu tiên luôn thúc bách tâm hồn người giáo lý viên phải là mối bận tâm tìm kiếm điều gì hợp với ý Thiên Chúa. Những bận rộn của đời sống thường ngày dễ lôi kéo chúng ta nghe theo tiếng nói của tư lợi, của danh vọng, của ảo tưởng và cả tiếng nói của thần dữ. Chúng luôn tìm cách đánh lừa để lái chúng ta đi theo đường khác. Nhưng với thái độ tin yêu phó thác vào Chúa, giáo lý viên luôn thức tỉnh lắng nghe tiếng nói của Chúa và sẵn sàng thực thi.
Tóm lại, người sống tình con thảo với Thiên Chúa là người sống trong tâm tình tôn kính, yêu mến và nghe lời Thiên Chúa. Họ là người chấp nhận để Chúa Thánh Thần nắn đúc hình hài Đức Kitô trong mình, và một khi có Chúa Kitô trong mình [1], họ hăng say đem Chúa Kitô đến cho người khác. Họ là người gắn bó với Đức Kitô là Đầu và đương nhiên họ cũng gắn bó với anh em là những chi thể của Đầu.
_____________________________________
[1] Xem Gal 2,20 ; Phil 1,2
BÀI 5 CHƯƠNG II : GẮN BÓ VỚI GIÁO HỘI
Khi giáo lý viên đã yêu mến Chúa Kitô thì không thể không yêu mến Giáo hội là thân thể của Người. Cũng như đầu và thân thể nối kết và truyền thông sự sống cho nhau thế nào, Chúa Kitô và Giáo hội cũng liên kết mật thiết với nhau như vậy. Hơn nữa, qua Giáo Hội, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta sự sống thần linh của Người. Vì thế, yêu mến Giáo Hội là một bổn phận tự nhiên cũng giống như bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Lòng yêu mến này được cụ thể hóa bằng thái độ vâng phục các vị chủ chăn, biết bênh vực đường lối của Giáo Hội và cộng tác với Giáo Hội trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng.
1. VÂNG PHỤC GIÁO HỘI
Lòng vâng phục Giáo Hội không chỉ là một tình cảm tự nhiên và trần thế, nhưng trước hết bắt nguồn từ đức tin vì Giáo Hội là Thân thể Chúa Kitô và chính Đức Kitô đã trao quyền cho Giáo hội khi xác định điều này : “Ai nghe các con là nghe Ta, ai không nghe các con là không nghe Ta. Ai không nghe Ta là không nghe Đấng đã sai Ta” (Lc 10, 16). Như vậy Giáo Hội là người trực tiếp thay quyền Chúa, luôn chỉ cho chúng ta con dường phải đi để đạt được ơn cứu độ. Vì thế lòng vâng phục của chúng ta đối với Giáo Hội phải trọn vẹn và đượm tình con thảo.
Ngày nay, vâng phục Giáo Hội là một điều khó đối với một số người. vì Giáo Hội tại thế thường phải dạy dỗ và hoạt động trong những hoàn cảnh lịch sử rất khó khăn và tế nhị. Giữa một xã hội đầy kích động và hỗn độn, giáo huấn của Giáo Hội bị coi thường hoặc bị phi bác. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng Giáo Hội luôn đi sát Tin mừng Chúa Kitô và qua Giáo Hội, Chúa Giêsu tiếp tục dạy dỗ ta. Dĩ nhiên, không phải tất cả mọi lời dạy dỗ hay hành động của các vị chủ chăn đều đúng, đều hợp thời. Nhiều khi những hoàn cảnh phức tạp làm cho các ngài có những quyết định mà ta khó chấp nhận, nhưng dù sao, các ngài không bao giờ muốn làm gì thiệt hại đến ơn cứu độ của người khác. Vậy khi có những bất đồng với các vị chủ chăn, giáo lý viên nên khiêm tốn đối thoại, kiên nhẫn chờ đợi, đôi khi phải từ bỏ cả ý riêng và tìm cách khám phá ra ý Chúa trong lời các ngài dạy bảo để vâng phục và cộng tác trong tinh thần xây dựng, vì tin rằng Thiên Chúa quyền năng có thể biến những điều dở thành điều lợi ích cho chúng ta và Thiên Chúa có thể dùng những điều thế gian cho là điên dại để làm nên những việc lớn lao.
Trong tâm tình người con, giáo lý viên không chỉ vâng phục cách máy móc theo lệnh từ trên ban xuống nhưng còn nhạy cảm trước mọi nhu cầu của Giáo Hội. Vì là một thành viên trong Giáo Hội, giáo lý viên luôn đồng cảm vối Giáo Hội, nghĩa là cùng chia sẻ niềm vui nỗi buồn chung và nhất là luôn giữ thái độ ủng hộ Giáo Hội bằng cách hưởng ứng tích cực việc thực thi và truyền đạt giáo huấn của Giáo Hội.
Sự vâng phục mà Giáo Hội mong muốn nơi con cái mình sẽ không giết chết sáng kiến và tinh thần trách nhiệm của mỗi người. Trái lại sự vâng phục sẽ là cơ hội để thể hiện những sáng kiến hay đẹp của mình đối với các huấn lệnh của Giáo Hội.
2. BÊNH VỰC GIÁO HỘI
Ngày nay Giáo Hội luôn bị tấn công và hiểu lầm, nhiều người không còn tin vào Giáo Hội vì cho rằng trong Giáo Hội cũng đầy những gương xấu. Thật ra, Giáo Hội là Dân Thánh của Thiên Chúa nhưng vì Giáo Hội có một tổ chức hữu hình, luôn mang một bộ mặt trần thế, nên có thể có những lỗi lầm do những con người trong Giáo Hội gây ra. Hiến chế về Giáo Hội đã khẳng định : Giáo Hội là Thánh nhưng từ trong lòng Giáo Hội có những người con tội lỗi (Giáo Hội số 8). Vì bao lâu còn trên đường lữ thứ trần gian, Giáo Hội còn tiến bước giữa những cám dỗ (Giáo Hội số 9). Thêm vào đó đôi khi Giáo Hội lại sửa dạy những điều trái ngược với ý riêng của nhiều người, nên dễ bị chống đối.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta chấp nhận rằng Giáo Hội vẫn có những sai sót, phạm lỗi, bởi vì Giáo hội luôn ôm ấp trong mình những con người thiếu sót, nhưng hằng ngày, chính Giáo Hội không ngừng sám hối cho con cái mình. Bản chất Giáo Hội là thánh thiện và sự thánh thiện này đã được bộc lộ qua lối sống gương mẫu của biết bao vị thánh. Do đó Giáo Hội vừa thánh thiện vừa phải luôn nhắc nhở chính mình, luôn ý thức thân phận hữu hạn và tội lụy của mình để không ngừng sám hối và canh tân (Giáo Hội số 8).
Giáo lý viên là người, qua Giáo Hội, được Chúa sai đi rao giảng, nghĩa là được ở với Người và được tham dự vào công việc của Người. (Mc 3,14) Vì thế, trong mức độ của mình, giáo lý viên có bổn phận bênh vực Giáo Hội, không phải bằng các cuộc đấu khẩu hay chiến tranh nhưng bằng việc phổ biến giáo lý lành mạnh của Giáo Hội và bằng cách sống gương mẫu. Chúng ta đừng quên rằng sự toàn hảo của Giáo Hội lệ thuộc vào hạnh kiểm của chúng ta.
3. CỘNG TÁC VỚI GIÁO HỘI
Sứ điệp Tin mừng mà giáo lý viên trình bày không phải là của riêng mình, nhưng đã được Chúa Kitô ủy thác cho Giáo Hội, vì thế giáo lý viên không trình bày như ý kiến riêng mà phải truyền đạt theo đúng ý của Giáo Hội. Giáo lý viên có thể cộng tác với Giáo Hội trong hai lãnh vực :
3-1. Bên trong Giáo hội : Trong tâm tình của người con, giáo lý viên tích cực xây dựng đời sống đức tin và đức mến, luôn tiếp tay với các vị chủ chăn để giúp các tín hữu sống đạo một cách có chiều sâu, đồng thời họ trở nên giây bác ái liên kết mọi người trong cộng đoàn xứ đạo. Khi dạy giáo lý, giáo lý viên giúp các tín hữu đào sâu và sống trưởng thành đức tin, nhưng đôi khi thái độ của giáo lý viên lại là một phản chứng, nghĩa là thay vì cộng tác chúng ta lại phá đổ ; thay vì đem người khác đến gần Chúa, ta lại làm họ xa Chúa vì những thái độ của chúng ta. Để cho sứ điệp Chúa Kitô được tự do nẩy sinh trong tâm hồn người khác, thiết tưởng giáo lý viên cần chú ý đến một số thái độ sau :
• Từ bỏ thái độ “thầy dạy”
Trong Giáo Hội, có một số người cho rằng xã hội càng ngày càng xa đọa và họ kết án Giáo Hội đã không làm việc cho đủ. Đối với người quá cấp tiến, họ chống đối Giáo Hội là đã không bắt kịp với đà tiến của con người. Đối với người quá bảo thủ, họ thu mình lại không làm gì hoặc là quá nhiệt tâm muốn lôi kéo người khác theo mình bằng bất cứ cách nào. Những thái độ trên đều cho thấy một sự bất an sâu xa, đồng thời biểu lộ ý muốn bá chủ đã lỗi thời trong truyền thống đức tin, không thích hợp với Tin Mừng.
Để sống theo Tin Mừng, giáo lý viên luôn giữ thái độ tin tưởng vào ơn Chúa hơn là vào khả năng của mình. Kinh Thánh cũng đồng quan điểm : “Người này gieo, kẻ khác gặt (Jn 4, 37) hay “Nước trời giống như một người đi gieo hạt xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết (Mc 4, 26-27).
Các hình ảnh Kinh Thánh này nhắc nhở giáo lý viên : có phải chỉ cần chúng ta làm tận lực, làm giỏi, là việc rao giảng Tin Mừng sẽ hoàn thành ? Thật ra chúng ta không có khả năng làm cho người khác đón nhận Tin Mừng, nhưng khi làm công việc này, trước hết giáo lý viên phải tin tưởng vào sức hoạt động của Chúa Thánh Thần, Ngài luôn hành động trong Giáo Hội và thế giới. Tiếp đến cần phải tin vào khả năng đón nhận ơn Chúa của mọi tâm hồn, tức là vào ân sủng và tự do. Giáo lý viên chỉ là người gieo hạt, tưới nước, bón phân nghĩa là tạo điều kiện để Lời Chúa lớn lên trong các tâm hồn, còn việc hạt giống nẩy mầm và sinh hoa kết trái là việc của Chúa và sự sẵn sàng của các tâm hồn.
Như vậy trong việc dạy giáo lý, giáo lý viên phải từ bỏ giọng điệu thầy thợ, quá tin tưởng vào sức lực và tài năng của mình. Tuy nhiên sự từ bỏ này không được đi đến chỗ là không làm gì hoặc làm một cách thụ động, qua loa chiếu lệ. Trái lại nó làm ta can đảm hành động, biết sáng tạo và thích nghi hơn.
• Đặt cho đúng trách nhiệm của mình
Việc từ bỏ thái độ thầy dạy không làm giáo lý viên thụ động nhưng dấn thân tích cực hơn trong trách nhiệm. Vai trò giáo lý viên là làm sao tạo ra những điều kiẹn để đức tin có thể được đón nhận. Giáo lý viên có thể sửa soạn mảnh đất và tưới bón cho cây lớn lên. Nhưng thực là vô ích khi cứ tưới đại hay cầm lá mà kéo cho cây mau lớn. Ta không thể làm thay Chúa Thánh Thần hay thay trách nhiệm của người khác. Một khi chúng ta có lòng nhiệt thành vô trật tự, chúng ta sẽ đi quá giới hạn của mình. Một thái độ đúng đắn trong việc dạy giáo lý là không được từ nhiệm cũng không được làm cho qua lệ, nhưng là luôn quan tâm nghiên cứu những điều kiện thuận lợi để đức tin được tăng trưởng không ngừng.
• Không chặn đứng sự tiến triển đức tin của người khác
Một khi đã tin vào ân sủng và tự do, giáo lý viên không biến người học giáo lý thành một bức ảnh chụp lại hay một bản sao theo cách sống, theo lối suy nghĩ và cách hiểu đức tin của mình. Trong vấn đề giáo dục, người ta dễ bị cám dỗ là bắt người khác rập theo hình ảnh của mình. Họ muốn áp đặt người khác phải làm theo những tập tục, kiểu cách của mình. Trong việc dạy giáo lý, sự cám dỗ này cũng luôn rình rập người giáo lý viên. Mỗi người có một lối sống, một thói quen, một lòng sùng kính, một kiểu cách giữ đạo và người ta muốn người khác phải sống theo khuôn đúc của mình. Chính vì thế Tông huấn Dạy Giáo lý đã viết : “ Giáo lý viên không được tìm cách quy hướng về chính mình, về các ý kiến và thái độ cá nhân của mình ; nhất là họ không được tìm cách ghi tạc vào lòng học viên các ý kiến và cảm nghĩ cá nhân của chính mình, chẳng khác gì các ý kiến và cảm nghĩ ấy diễn tả giáo lý và các bài học về đời sống Đức Kitô” (DGL 6). Do đó điều quan trọng là không bao giờ chúng ta được chặn đứng đức tin của người khác bằng những quy định cá nhân hẹp hòi về niềm tin hay lối sống của mình. Tuy rằng giáo lý viên phải làm chứng về cách sống đức tin của riêng mình, nhưng không phải là sản xuất ra một mẫu người y hệt mình. Hãy giúp cho người học giáo lý khám phá ra tính chân thực của Tin Mừng và tăng trưởng đức tin trong những điều kiện của họ.
3-2. Bên ngoài Giáo Hội : Giáo lý viên luôn tích cực tham gia vào việc mở rộng nước Chúa. Nếu Công Đồng Vaticanô II định nghĩa : “Giáo Hội tự bản tính là truyền giáo”[1] thì giáo lý viên phải ý thức rằng đó cũng chính là sứ mệnh của mình, được bắt nguồn từ mệnh lệnh của Đức Kitô : “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ các điều Thầy đã truyền dạy cho anh em”[2]..
Việc loan báo Tin mừng này luôn được Giáo Hội coi là một nhiệm vụ ưu tiên[3], một bổn phận thiêng liêng[4], một mối bận tâm hàng đầu[5]. Đặc biệt Đức Thánh Cha Phaolô VI, trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng đã thúc bách toàn thể giáo Hội phải ý thức và dồn hết mọi nỗ lực của mình vào việc loan báo Tin mừng. Vậy giáo lý viên phải làm gì để tham gia vào việc mở rộng nước Chúa ?
Dựa vào chương II của Tông huấn Loan báo Tin mừng, chúng ta thấy nêu lên mấy yếu tố sau đây :
• Làm mới bộ mặt nhân loại : giáo lý viên có thể làm mới lại bộ mặt nhân loại bằng cách thay đổi tự bên trong con người của mình cũng như tìm cách hoán cải lương tâm từng cá nhân và tập thể của con người [6], tìm cách nâng cao mọi sinh hoạt mà con người đang dấn thân vào[7], giúp đổi mới đời sống và hoàn cảnh cụ thể của họ[8], dùng những giá trị Tin mừng để hướng dẫn những tiêu chuẩn phán đoán, cách suy nghĩ và những mẫu mực sống của nhân loại khi những điều ấy ngược với Lời Chúa và chương trình cứu độ[9].
• Làm chứng tá bằng sự hiện diện, bằng thái độ sống, bằng gương sáng. Đức Phaolô VI khẳng định rằng : “Một đời sống gương mẫu đã là sự công bố Tin Mừng tuy thầm lặng nhưng rất mãnh liệt và hiệu nghiệm”[10]. Thật vậy, nếu chỉ làm chứng bằng lời nói suông, lời chứng của chúng ta không có hiệu nghiệm. Với gương sáng, với thái độ sống tốt lành, đời sống của mỗi giáo lý viên trở nên một bài giảng hùng hồn về Tin mừng, vì đời sống tốt lành và chân thực mới có sức thuyết phục được người khác hơn là những lý thuyết trừu tượng. Người ta đoán có mặt trời khi nhìn ánh sáng rọi qua đám mây… Ước gì người ta cũng nhận ra Đức Kitô qua đời sống của giáo lý viên.
• Dấn thân trong các hoạt động tông đồ, xã hội : Giáo Hội ngày nay rất quan tâm đến vấn đề xã hội, đến công lý và hòa bình. Trước khi giúp người khác quan tâm đến các vấn đề xã hội, giáo lý viên phải là người đã từng thao thức và đã dấn thân vào các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội bao gồm việc dấn thân giúp đỡ người nghèo khổ, xấu số ; việc quyên tiền, thực phẩm, quần áo giúp những người lâm nạn… việc đi thăm viếng người bệnh trong nhà thương hoặc làm trung gian hòa giải để xóa tan những bất công. Những hành vi này chính là “ sự trắc nghiệm của chân lý, là đá thử vàng của việc Phúc âm hóa”[11].
Vài nét nổi bật cho thấy Tông huấn đã nêu lên những điểm then chốt trong việc loan báo Tin mừng, một nhiệm vụ tối quan trọng của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu. Thật vậy, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ : “Hãy đi khắp thế giới rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo…”[12]. Việc truyền giảng này cần thiết để khơi dậy niềm tin nơi các tâm hồn. Do đó Thánh Phaolô đã khẳng định : “Làm sao người ta có thể tin nếu không được nghe Tin mừng, làm sao có thể nghe Tin mừng nếu không có người đi rao giảng… Vậy tin là do nghe truyền giảng, mà nghe giảng là do công bố Lời Đức Kitô”[13]. – [1] TG 2 [2] Mt 28, 19-20 [3] DGL 15 [4] DGL 14 [5] Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng (LBTM) 1 [6] LBTM 18 [7] LBTM 18 [8] LBTM 18 [9] LBTM 19 [10] LBTM 21 [11] LBTM 24 [12] Mc 16, 15 [13] Rm 10, 14-17
BÀI 6 CHƯƠNG III : THĂNG TIẾN CON NGƯỜI
Nhìn vào xã hội ngày nay, một xã hội đầy cạnh tranh và chuyển mình cách mau lẹ. Một xã hội thích đề cao những giá trị vật chất, những gì cụ thể trước mắt. Một xã hội mà trong đó, con người sống vội vã, thi đua hưởng thụ… Tắt một lời, một xã hội coi nhẹ những giá trị đích thực của cuộc sống. Cái khủng hoảng căn bản của xã hội mà chúng ta đang sống là khủng hoảng về ý nghĩa. Con người hình như đang đói khát cái ý nghĩa, đói khát cái chân thực của đời người. Sống trong bầu khí ấy, dường như chúng ta cũng rơi vào một quỹ đạo mà những cái xấu, những cái trần tục đang vây bọc tư bề. Vậy một giáo lý viên khi ra làm việc, họ cần những gì ? Họ phải làm gì để sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, họ phải có những đức tính nào để khi sống giữa những bon chen của trần thế, họ không bị lạc loài, chao đảo và trống vắng.
Dựa vào tài liệu của Bộ Truyền giáo cho các Sắc tộc về việc hướng dẫn các giáo lý viên trong ơn gọi, trong việc đào tạo và thăng tiến đời sống của họ tại các miền truyền giáo, chúng ta nêu lên một vài yêu cầu mà một giáo lý viên phải có, đó là sự thống nhất giữa đời sống thiêng liêng, đời sống tự nhiên và đời sống tông đồ. Nói chung giáo lý viên cần được đào tạo luôn mãi để biết thăng tiến đời sống bản thân và đời sống tha nhân.
1. THĂNG TIẾN ĐỜI SỐNG BẢN THÂN
Thăng tiến bản thân ở đây không nhằm đời sống vật chất nhưng là đời sống tinh thần. Giáo lý viên cần luyện tập những đức tính, nhân cách và những khả năng cần thiết như một hành trang không thể thiếu được trong việc dạy giáo lý :
1-1. Đời sống tâm linh:
Giữa những bận tâm lo lắng về cuộc sống, giáo lý viên rất khó duy trì sự quân bình đời sống tâm linh. Đây là một thách đố rất lớn đối với chúng ta. Nhưng việc dạy giáo lý trước tiên phải là việc chia sẻ một kinh nghiệm sống với Đức Kitô. Kinh nghiệm càng sâu, lời chia sẻ càng mang tính chân thực. Do đó, chúng ta cần xác tín rằng, đời sống thiêng liêng của giáo lý viên tiến triển ra sao là tùy thuộc vào hoạt động của Chúa Thánh Thần và vào tinh thần sẵn sàng của con người. Vậy chúng ta phải làm gì để nâng cao đời sống tâm linh ? Thưa phải tập luyện sống đời nội tâm.
Đạo Chúa không phải là mớ lý thuyết nhưng là sự sống. Người ta không thể diễn tả sự sống khi chính mình chưa có kinh nghiệm về sự sống đó. Giáo lý viên không thể trao ban sự sống của Chúa cho tha nhân nếu trong mình chưa có sự sống của Ngài. Vậy làm sao để có sự sống của Đức Kitô ? Chúng ta dựa vào thư thánh Phaolô gởi cho giáo đoàn Ephêsô để mô tả con người nội tâm :« Tôi quỳ gối trước mặt Thiên Chúa Cha, là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Tôi nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự phong phú của người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm của anh em được vững vàng. Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn ; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu » (Ephêsô 3, 14-18). Như vậy, người nội tâm là người :
– Cảm nghiệm sâu xa tình con đối với Thiên Chúa là Cha bằng cách vận dụng mọi phương tiện có thể, để giúp đào sâu những hiểu biết và kinh nghiệm về Chúa Kitô như học hỏi Kinh Thánh, chia sẻ Lời Chúa, đọc sách đạo đức, tham dự Thánh lễ, bí tích, viếng Thánh Thể, kinh Mân Côi … đó là những điều phải làm thường xuyên trong cuộc sống để đời sống tâm linh được ổn định.
– Muốn làm con như Đức Kitô đã làm con. Các khóa tĩnh tâm, những giờ xét mình… là dịp để giáo lý viên uốn mình rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô trong thái độ làm con với Thiên Chúa và làm anh em của mọi người.
– Để Thánh Thần tự do nắn đúc. Thánh Thần được ban cho Giáo Hội và cho mỗi tín hữu như người Thầy nội tâm, Ngài làm cho ta cảm nhận sâu xa được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Ý thức được vai trò đổi mới và tác tạo của Chúa Thánh Thần, giáo lý viên để Ngài tự do tác động và uốn nắn bằng cách tập lắng nghe tiếng Ngài trong đời, nơi Giáo Hội, trong các biến cố để Ngài nắn đúc hình ảnh Đức Kitô trong tâm hồn mình.
Tóm lại, người nội tâm luôn biết sống tình con thảo với Thiên Chúa theo gương Đức Kitô. Họ là người chấp nhận để Chúa Thánh Thần nắn đúc hình hài Đức Kitô trong mình, và một khi có Chúa Kitô trong mình [1] , họ hăng say đem Chúa kitô đến cho người khác. Họ là người gắn bó với Đức Kitô là Đầu và đương nhiên họ cũng gắn bó với anh em là những chi thể của Đầu. Vậy ai có thể làm được điều này nếu không phải là người có đời sống nội tâm sâu xa ?
1-2. Nhiệt tình truyền giáo :
Giáo lý viên là người có tinh thần truyền giáo như chính Đức Kitô, Ngài đã “đến để thâu họp con cái Thiên Chúa đang tản mác thành một mối” (Jn 11, 52), và Ngài như vị mục tử tốt lành luôn tìm kiếm và hiến thân vì đàn chiên của mình (Jn 10). Do đó, giáo lý viên là người luôn bị thôi thúc bởi lòng nhiệt thành với các linh hồn, bắt nguồn từ lòng yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội. Giáo lý viên luôn nuôi trong mình tinh thần mau mắn dấn thân phục vụ, họ sốt ruột, nóng lòng và khao khát làm một cái gì đó cho Chúa, cho tha nhân. Với tinh thần này, họ tích cực đón nhận sứ mệnh truyền thông Lời Chúa và can đảm phấn đấu trước những khó khăn trong khi thi hành sứ mệnh bằng cách chú ý, ân cần, trắc ẩn, đón tiếp người khác và quan tâm đến những vấn đề của họ.
Câu nói của Bernanos phải làm chúng ta phải suy nghĩ : “Tai họa lớn lao nhất của thế giới này, không phải vì có những kẻ nghịch hay chống đạo, nhưng vì chúng ta là những Kitô hữu không có nhiệt tình tông đồ. Thật là điên rồ khi khoe khoang rằng chúng ta đã biết được chân lý, một chân lý toàn vẹn sống động, một chân lý giải thoát và cứu rỗi nhưng lại nằm yên bất lực trong tay chúng ta. Các bạn nói thế giới không chịu trở lại, không chịu sống tốt, nhưng thực ra các bạn đã thiếu nhiệm vụ với thế giới. Cũng vì thái độ thờ ơ của chúng ta nên nhiều người không biết đến dung nhan của Đức Kitô, hoặc là qua các bạn, họ đã thấy một Đức Kitô méo mó, dị hình.”
Câu nói này có tính thúc bách, đồng thời cũng làm chúng ta suy nghĩ và nhìn lại mức độ hăng say của chúng ta. Khi dấn thân trong việc dạy giáo lý là chúng ta đã nói lên ước muốn được sai đi làm việc cho Chúa, nhưng phải làm với thái độ nào, đó là điều chúng ta phải suy nghĩ và học hỏi trong suốt cuộc sống.
1-3. Đức tính nhân bản.
Giáo lý viên là người luôn lớn lên trong đời sống nhân bản để có thể đảm nhận trách nhiệm được trao phó. Họ là người có những đức hạnh cần thiết trong công việc và cuộc sống, có tinh thần hy sinh, kiên nhẫn và năng động. Nói chung mọi đức tính nhân bản đều rất cần thiết cho vai trò giáo lý viên. Ở đây chúng ta chỉ nêu lên vài đức tính sơ khởi như : lịch sự, vui vẻ, kính trọng tha nhân. Thiết tưởng đó là những đức tính căn bản của giáo lý viên.
• Giáo lý viên lịch sự trong tác phong, trong cách nói năng, ăn mặc sẽ dễ thu hút người nghe. Con người ngày nay, nhất là giới trẻ thích nhìn vào gương tốt mà bắt chước hơn là chỉ nghe giảng thuyết, họ cần một chứng từ hơn là những kiểu nói hùng biện.
• Tiếp đến, Giáo lý viên cần phải vui vẻ vì chỉ như thế họ mới thu hút được người khác. Giống như loài ong đến với đám hoa, người ta thích đến với những ai vui tươi và hồn nhiên cho dù bên ngoài có vẻ trầm mặc. Nhưng ở đây, ta muốn nhấn mạnh đến niềm vui nội tâm. Trong sinh hoạt tông đồ, nhiều người đã không làm tỏa sáng được điều họ muốn truyền đạt. Lý do vì họ không thao luyện cho mình có một niềm vui nội tâm vững chắc và sâu xa. Họ vui nhưng chỉ là cái vui hình thức, cái vui hời hợt bên ngòai. Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, mặc dù Ngài đã dùng Thánh Giá và cứu chúng ta, nhưng Tin Mừng của Ngài đã bắt đầu bằng niềm vui Giáng Sinh và kết thúc bằng niềm vui Sống lại. CG khởi đầu việc giảng dạy bằng những mối phúc thật và kết thúc bằng lời hứa một niềm vui “mà không ai cướp đi được”(Jn 16,22). Đọc các thư Phaolô, ta thấy Ngài nhắc với các kitô hữu hơn 50 lần những câu : “hãy vui lên ! Hãy giữ lấy niềm vui ! Hãy đem sự vui mừng đến cho mọi người ”. Tóm lại, vui tươi là một trong những đặc tính của sự thánh thiện, nó chiếu sáng và sưởi ấm mọi người và mọi cảnh vật chung quanh chúng ta.
• Một điểm khác trong sự trưởng thành nhân bản là biết kính trọng tha nhân. Ý thức về người khác và kính trọng họ không phải chỉ là một nhân đức, nhưng là tổng hợp của ngàn nhân đức âm thầm hay rực sáng. Kính trọng người khác :
– Đó là phép lịch sự, biết lắng nghe và biết xuất hiện với những cung cách thật dễ thương,
– Đó là sự thông cảm biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác,
– Đó là lòng khoan dung, không chắt bóp vụn vặt,
– Đó là sự dịu dàng, biết đối xử chân tình, không nóng giận,
– Đó là lòng nhân hậu luôn biết tha thứ,
– Đó là tâm tình khiêm hạ, luôn nhận ra giá trị của người khác…
Như vậy, điều thiện lớn nhất mà ta có thể làm cho người khác là kính trọng họ.
Tóm lại, lịch sự, vui vẻ, kính trọng tha nhân là những đức tính khởi đầu, từ đó ta có thể xây nên những đức tính khác của một người trưởng thành nhân bản. Mà trưởng thành nhân bản chính là cái nền để xây dựng một người trưởng thành kitô giáo và là điều kiện để làm việc tông đồ có hiệu quả.
1-4. Khả năng chuyên môn :
Càng ngày công việc càng được chuyên môn hóa. Đối với việc loan báo Tin mừng, chúng ta cũng cần trở thành những thợ lành nghề, nghĩa là biết cách sống, nói và hành động thế nào cho có hiệu quả nhất. Điều này dễ hiểu, chúng ta không thể làm cho người khác tin nếu chúng ta yếu niềm tin, chúng ta không thể nói về Chúa nếu chúng ta chỉ biết sơ sài về Chúa, chúng ta không thể truyền đạt cho ai điều gì nếu chúng ta không có chút vốn liếng nơi mình. Vậy để trở thành con người chuyên môn trong công tác tông đồ, giáo lý viên cần học hỏi những cách thức, những kỹ năng qua sách vở, qua những khóa đào tạo. Nhưng việc đào tạo chủ động vẫn thuộc về mỗi người chúng ta, người khác không thể nhồi nhét điều gì nếu chúng ta không muốn nhận, hoặc là, người thì muốn nhồi nhét điều này, kẻ thì muốn đón nhận điều kia. Vì thế giáo lý viên cần biết mình đang cần gì, mình có thể phục vụ tốt nhất về phương diện nào để có thể đầu tư nhiều hơn về phương diện ấy. Tuy nhiên, ngoài việc trau dồi một khả năng chuyên môn thích hợp nào đó, chúng ta cần có một kiến thức phổ thông về nhiều lãnh vực khác. Thiết nghĩ đó là một hành trang phong phú sẽ giúp giáo lý viên làm việc có hiệu quả hơn và nhất là có tự tin trong sứ mệnh của mình.
2. THĂNG TIẾN THA NHÂN
Dựa vào những hoạt động bên ngoài, người ta đã định nghĩa về người giáo lý viên như sau : “ Giáo lý viên là người vun trồng, bảo vệ và thăng tiến đời sống làm người và làm con Chúa, trong Giáo Hội, theo mẫu Chúa Giêsu Kitô, nơi những người được ủy thác cho mình”. Như vậy giáo lý viên là người luôn biết quan tâm đến hạnh phúc hiện tại và vĩnh cửu của tha nhân.
2-1. Sẵn sàng tiếp nhận tha nhân.
Giáo lý viên là người luôn biết đón nhận người khác cách niềm nở và luôn kính trọng nhân vị của họ, bất kể đó là ai. Đây là một yêu sách cơ bản đối với giáo lý viên. Khi tiếp đón người khác, giáo lý viên phải ra khỏi thế giới của mình với những thói quen, những kiểu cách riêng để đi vào thế giới của người khác với tất cả những gì khác biệt của họ. Hơn nữa, tiếp nhận tha nhân không phải là thái độ của người trên tiếp nhận người dưới hay thái độ của người cho đối với người nhận.
Một nguy hiểm luôn rình rập người giáo lý viên là dễ chú ý đến những người thuộc về mình, những người mình ưa thích. Nếu giáo lý viên chỉ chú ý đến những người cùng họ hàng, giai cấp, nơi chốn, văn hóa, những người ngoan ngoãn, dễ bảo… điều này không phù hợp với tinh thần của Tin mừng. Chúa Giêsu đã cảnh giác các thầy dạy “ Người tội lỗi sẽ vào thiên đàng trước các ngươi” (MT 21-31). Ngài còn nói với các môn đệ : “Ai tiếp đón một kẻ bé mọn nhất trong những người này vì Danh Thầy là tiếp đón chính Thầy” (Mt 18, 5).
Như vậy sự tỉnh thức theo Tin Mừng đòi hỏi Giáo lý viên không được phân biệt hay loại trừ ai. Trong việc dạy giáo lý, chúng ta không được phép bỏ rơi những người nhỏ bé, người dốt, khó bảo hay không thích hợp với kiểu cách, thói quen, phong tục của chúng ta. Tất cả đều có quyền học giáo lý và có quyền được hưởng sự kính trọng, sự ân cần niềm nở và sự quan tâm đặc biệt của chúng ta.
2-2. Chia sẻ
Đặc tính căn bản của cuộc đời tông đồ chính là chia sẻ, chia sẻ với người khác sự sống của Đức Kitô. Giáo lý viên là người đồng hành với Đức Kitô (Cv 1,21). Họ được Chúa kêu mời, lên đường với người, lắng nghe Nguời, cầu nguyện với Người và sau đó được Người sai đi chia sẻ lại những gì đã lãnh nhận. Nhưng chia sẻ cách nào ?
• Chia sẻ những khổ đau : Giáo lý viên không phải chỉ là nói về Chúa cho người khác, nhưng còn là gánh lấy những đau khổ và tuyệt vọng của họ. Cụ thể, sứ mệnh của giáo lý viên không hứa cho chúng ta một kiểu cách sống yên ổn, không xáo động nhưng có khi làm chúng ta phải vất vả, mất thăng bằng vì muốn tìm hạnh phúc của người khác, nó sẽ thẩy chúng ta vào một chỗ khác, nó thúc đẩy chúng ta đi đến những môi trường mới để vươn tới và ôm ấp lấy những gì rất xa lạ, và cũng có khi rất khó chịu. Ngoài ra, lòng trắc ẩn của giáo lý viên còn đỏi hỏi một sự chia sẻ vật chất : chia cơm sẻ áo cho người đói rách và biết tìm chỗ tựa nương cho những ai không tìm được mái ấm. Nói chung, đời tông đồ cũng có lúc làm chúng ta bị thương tổn và có khi rất căng thẳng, nhưng tất cả những điều đó chỉ là cơ hội để chúng ta chia sẻ hạnh phúc của mình cho tha nhân. Vì phương thế tốt nhất để chia sẻ hạnh phúc là biết chia sẻ hạnh phúc.
• Chia sẻ những gì tốt đẹp : Một trong những hình thức cao độ của tình yêu là chia sẻ những gì tốt đẹp nhất của mình cho người khác. Đó có thể là khả năng, đức tính, những gì nâng cao đời sống tha nhân và nhất là làm cho họ cảm thấy được yêu thương. Giáo lý viên là người có tình yêu thương và tình yêu này trải rộng đến bất cứ ai. Giáo lý viên luôn sống trung thực với điều mình giảng dạy là truyền đạt sứ mệnh yêu thương. Giáo lý viên luôn gieo rắc bình an hạnh phúc và làm cho người khác tươi nở vì sự quan tâm kính trọng của mình. Tóm lại giáo lý viên là người nhờ ơn Chúa để yêu thương và để tự hiến bản thân mình vì lợi của tha nhân.
2-3. Tích cực xây dựng cộng đoàn xứ đạo : Trách nhiệm của giáo lý viên là tích cực cộng tác với cha xứ để xây dựng xứ đạo. Việc xây dựng này có khi phải đánh đổi bằng những mất mát, những đau thương, những hiểu lầm, những va chạm, nhưng chính qua những cái đó giáo lý viên mới có thêm kinh nghiệm và khả năng kiến tạo và trao tặng hạnh phúc cho người khác. Là thành viên của một xứ đạo, giáo lý viên không có quyền tách biệt khỏi nhịp sống của xứ đạo và nhất là không có quyền hạnh phúc một mình. Vì vậy chúng ta nên tự hỏi : Tôi có làm cho người khác được triển nở khi họ sống với tôi không ? Tôi có cho người khác cơ may chia sẻ những gì họ gặp không ? Tôi có tích thực tham gia những công việc chung của xứ đạo không ?
Khi cùng sống trong một cộng đoàn giáo xứ, vai trò giáo lý viên phải là sợi dây nối kết mọi người trong tình huynh đệ hiệp thông. Tất cả đều cần đến nhau để nâng đỡ, khích lệ và để làm gương sáng cho nhau.
Với những tâm tình ấy, chúng ta không quên một điều là Chúa không cần gì vĩ đại vượt sức mỗi người nhưng cần sự cố gắng cộng tác dù là nhỏ bé thôi. Đời sống chúng ta phải tỏa được Chúa cho người khác, và ngần nào có thể, dù chỉ là một nụ cười.
Trước khi kết thúc, chúng ta nhắc lại câu nói của ECKHART : “Không nên lo lắng quá nhiều về những điều chúng ta phải làm, tốt hơn nên nghĩ cách phải sống thế nào. Nếu bản thân và đường lối của chúng ta tốt, thì những gì chúng ta làm sẽ tỏa sáng”.
Kếtluận : Một người giáo lý viên đúng nghĩa phải là người dung hòa được cả hai đời sống tâm linh và hoạt động tông đồ. Hoạt động mà không biết cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hành động là thiếu đất gieo hạt. Nhưng trong thực tế, chúng ta dễ rơi vào tình trạng mất quân bình, nghĩa là chỉ để ý phải lo dạy giáo lý thế nào mà không chú ý đến việc củng cố đời sống tâm linh. Thật ra, để dạy giáo lý cho có hiệu quả, chúng ta phải không ngừng trau dồi về đời sống tâm linh và khả năng tông đồ. Nhưng nói cho cùng thì điểm phải nhắm tới trước tiên là việc gắn bó với Chúa Kitô và lấy Lời Ngài làm nền tảng cho mọi lời rao giảng của chúng ta. Chúng ta nhắc lại ở đây câu nói của LYAUTEY : « Tất cả mọi sự đều phải quân bình và có trật tự. Đồng hành với hoạt động là cầu nguyện ; đồng hành với những cố gắng bên ngoài là đời sống nội tâm ».
Tóm lại, giáo lý viên là người :
– Luôn say mến Chúa Kitô và muốn cho mọi người cũng biết và yêu mến Ngài.
– Luôn gắn bó với Giáo Hội trong tinh thần cộng tác, hiệp thông và vâng phục.
– Luôn thao thức về cuộc sống hiện tại và mai sau của con người đồng thời tìm mọi cách để đem hạnh phúc đến cho họ.
Sau cùng Giáo lý viên nhìn lên Đức Maria như mẫu gương tuyệt hảo của mình : luôn mau mắn lắng nghe, đón nhận và rao truyền Lời Chúa, luôn biết cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ và luôn nhạy cảm trước mọi nhu cầu của con người.
[1] Xem Gal 2,20 ; Phil 1,21
BÀI 7 PHẦN II : HUẤN LUYỆN NHÂN BẢN
Giáo lý viên là người, do công việc của mình, phải tiếp xúc nhiều với người khác, vì thế họ cần trau dồi các đức tính nhân bản là yếu tố cần thiết giúp giáo lý viên trở nên những tín hữu gương mẫu như Công đồng Vatican II đã khẳng định : “Không có đức tính nhân bản, không thể sống tốt đời kitô hữu”. Như vậy muốn sống tốt đời Kitô hữu và trở nên dụng cụ hữu ích của Chúa và Giáo Hội, giáo lý viên cần có những đức tính căn bản của một người trưởng thành nhân cách.
Nhân cách không phải chỉ là cách ăn nết ở riêng của từng người, nhưng còn là những phẩm chất và phong cách mà ai cũng phải có để xứng đáng được gọi là người. Vậy người có nhân cách trưởng thành là gì ? Thưa là người biết sống tương quan tốt với tha nhân.
Bình thường, một người khó có thể làm việc hữu hiệu nếu không biết cộng tác với người khác, một người khó sống hạnh phúc khi không thể hiệp thông với người chung quanh. Muốn hiệp thông và cộng tác được với người khác, giáo lý viên không ngừng tạo những mối tương quan ngày càng phong phú, bền chặt, tốt đẹp và sâu đậm hơn nhờ các đức tính căn bản sau đây:
I. MỘT SỐ ĐỨC TÍNH CĂN BẢN CỦA GIÁO LÝ VIÊN
1. LỊCH SỰ VÀ TÔN TRỌNG NGƯỜI KHÁC
Chúng ta phải công nhận rằng : loài người càng văn minh, khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì hình như có một số người lại càng thoái lui về phương diện ứng xử và đạo đức. Khi nói về một người nào có nhân cách, người ta thường thấy đó là một con người biết làm đẹp cho mình cả bên ngoài lẫn bên trong bằng cách thể hiện một nếp sống văn minh, đạo đức. Một cách cụ thể, người lịch sự là người :
– Biết cách bày tỏ với mọi người cách thanh lịch, hợp lý và đúng phong cách của một con người có văn hóa, có giáo dục và lễ độ.
– Biết điều, nhã nhặn trong cách cư xử, biết đón nhận người khác như một món quà quý.
– Biết nhiệt tình tôn trọng người khác như một con người có giá trị, bất kể địa vị, hành vi tích cực hay tiêu cực của họ.
– Tôn trọng và yêu mến người khác như một con người đặc biệt, với tâm trạng, cá tính và cách sống của riêng họ trong lúc này.
Trong nghề giáo dục, người ta có kinh nghiệm rằng càng lịch thiệp và tôn trọng ai, thì việc giáo dục người ấy càng dễ thành công. Thái độ lịch sự và tôn trọng của giáo lý viên không chỉ thuần túy chỉ là tôn trọng người khác, mà đó cũng là cách tôn trọng chính mình, vì nó chứng tỏ mình là người có hiểu biết, có giáo dục, để từ đó người khác cũng trọng nể mình, và như vậy mình dễ hướng dẫn người khác.
2. VUI TƯƠI VÀ THÂN THIỆN
Sự vui vẻ thân thiện sẽ tạo ra bầu khí thoải mái, dễ chịu làm cho người khác dễ đến và dễ cởi mở. Một giáo lý viên có tính vui tươi cũng sẽ dễ thân thiện với các em, nhờ đó các em sẽ dễ lắng nghe, dễ chia sẻ những ước muốn và trở nên dễ dạy. Chúng ta đừng đến với giờ giáo lý bằng bộ mặt nhăn nhó, giận hờn, nghiêm nghị, hay lo âu. Điều này sẽ có tác động tiêu cực trên các em, làm các em khiếp sợ và không muốn đến học giáo lý.
Giáo lý viên nên đến với các em bằng sự bình đẳng, cởi mở, thân tình để tạo niềm vui và hứng thú khi các em đến với mình.
3. DỊU HIỀN VÀ NHẪN NẠI
Người dịu hiền thì biết thông cảm và nhẫn nại trước những dại khờ, những yếu đuối và ngỗ nghịch của người khác. Người dịu hiền dùng tình thương và sự nhẹ nhàng để giáo dục thay vì dùng uy quyền và lý lẽ.
Dịu hiền và nhẫn nại là hoa trái của Thánh Thần (Ga 5,22), là dấu chỉ của sự khôn ngoan nên nó là đặc điểm của những người lãnh đạo. Vì thế giáo lý viên phải biết tự kiềm chế : không nóng giận khi gặp những điều không vừa ý mình hay khi thấy công việc bắt đầu hư hỏng. Nóng giận sẽ làm cho sự phán đoán thành sai lạc, và phán đoán sai lạc sẽ đưa đến những quyết định lỡ và nghèo nàn. Một người lãnh đạo mà luôn quyết định lỡ thì sẽ mất tín nhiệm nơi người khác. Người ta thường nói : « Trong 30 giây nóng giận, bạn sẽ phá hỏng tất cả thiện chí và tinh thần cao mà bạn đã giày công khó nhọc để tạo dựng. Muốn điều khiển người khác, trước hết bạn hãy học cách tự điều khiển chính mình ».
4. TRUNG THỰC VÀ RÕ RÀNG
Tính trung thực làm cho mối tương quan giữa giáo lý viên và các em được trong sáng và bền chặt. Vì vậy giáo lý viên phải sống chân thực, thể hiện ra bên ngoài cũng như bên trong : không làm bộ, không đeo mặt nạ, không đóng kịch, không bao giờ hứa suông nhưng phải giữ lời hứa bằng bất cứ giá nào. Nhất là không được bịa đặt, nói sai sự thật. Cũng không nên nói mập mờ, hay thay đổi liên tục, như thế sẽ làm cho các em cảm thấy không an toàn. Trong khi tiếp xúc với các em, giáo lý viên nên cẩn thận để lời nói luôn đi đôi với việc làm. Nhờ đó các em mới thực sự tin tưởng, mến phục và dễ nghe lời.
5. CẢM THÔNG VÀ QUẢNG ĐẠI
Sự cảm thông và lòng quảng đại là những yếu tố đem đến thành công và làm thay đổi cách sống của người khác một cách dễ dàng. Muốn thế giáo lý viên phải bao dung, tế nhị và dễ tha thứ cho những thái độ có vẻ đụng chạm đến mình. Giáo lý viên không bao giờ chấp nhất, nhỏ nhen, bài bác hay hiềm khích. Nhờ một nghệ thuật biết cảm thông sâu sắc, cảm được từ bên trong những gì các em đang sống, giáo lý viên có thể lắng nghe được mọi tỏ bày, không lời và với lời của các em, để hiểu và đáp ứng lại những mong đợi của các em.
Hãy làm cho các em cảm thấy là ta hiểu biết họ, và biết quý trọng phần đóng góp của họ dù là rất nhỏ. Hãy nói với các em về chuyện của các em. Cho các em thấy là ta chú trọng đến các em. Giáo lý viên không nên quên rằng sự nhã nhặn của người trên đối với người dưới còn quan trọng hơn sự lễ độ của người dưới đối với người trên.
Thêm vào đó, sự cảm thông và lòng quảng đại đòi giáo lý viên sẵn sàng hy sinh thời giờ, vật chất, tài năng và công sức để giúp các em sống đạo tốt mà không mong được đền đáp công ơn dưới bất cứ hình thức nào, nhưng là cho đi tất cả vì Nước Trời.
6. TIN TƯỞNG NGƯỜI KHÁC
Mỗi con người đều mang nơi mình những hạt giống, những tiềm năng đang đợi cơ hội hiện hữu, triển nở. Nếu chúng ta biết nhìn thấy sự phong phú tiềm ẩn nơi mỗi con người và dám tin vào điều ấy, chúng ta sẽ giúp họ khám phá được chân tính của họ để có thể sửa sai và vươn lên.
Kinh nghiệm giáo dục cho thấy : nếu ta cho rằng một người nào đó bất lực trong việc này việc kia, thì thực sự người đó sẽ trở thành bất lực. Trái lại, nếu người đó cảm thấy được tin tưởng, được khuyến khích, thì họ sẽ có cơ hội vượt lên trên những bất lực và sẽ thay đổi một cách không ngờ. Đặc biệt đối với các em nhỏ, chúng ta càng tin tưởng, các em càng mau tiến bộ.
7. CÔNG BẰNG TRONG ĐỐI XỬ
Công bằng trong đối xử là đức tính rất quan trọng đối với người lãnh đạo.
– Người đối xử công bằng thì không bao giờ thiên vị ai và không để tình cảm yêu ghét lấn át mình. Một giáo lý viên thiếu công bằng trong đối xử sẽ tạo ra sự ganh ghét và mối chia rẽ giữa các em mình coi sóc.
– Người công bằng không tìm tư lợi, danh vọng bản thân nhưng làm tất cả vì ích chung và sự thăng tiến của các tâm hồn.
– Người công bằng còn dám nhận lỗi về mình chứ không tìm cách thoái thác hay đổ lỗi cho người khác.
8. DẤN THÂN
Dấn thân là chấp nhận chịu gian khổ, khó khăn cho bản thân mình để đem lại lợi ích cho người khác. Giáo lý viên đã lãnh nhận một sứ mệnh nơi Thiên Chúa và Ngài kêu mời chúng ta hãy dấn thân, hãy gánh lấy bổn phận trong sự tận tụy, hy sinh. Tuy nhiên, sự dấn thân cần phải có sự khôn ngoan đi kèm để có thể nhận định chính xác công việc mình làm là nhắm đến việc phục vụ cách hữu hiệu chứ không bị lừa dối mà làm những công việc vô ích.
9. TRÁCH NHIỆM
Nghệ thuật lãnh đạo và trách nhiệm đi đôi với nhau. Ý thức trách nhiệm là hiểu biết nhiệm vụ của mình, hiểu việc mình làm sẽ gây ra hậu quả thế nào cho người khác và cho chính mình. Từ đó biết chu toàn nhiệm vụ, biết cân nhắc, chọn lựa kỹ lưỡng trước khi bắt tay vào việc. Và khi được giao phó nhiệm vụ hay đã quyết định làm việc gì thì mọi hậu quả xảy đến, dù thành công hay thất bại, cũng dám lãnh nhận, không thoái thác, không lẩn trốn và không đổ lỗi cho người khác.
Giáo lý viên có tinh thần trách nhiệm sẽ không bỏ qua, quên sót hay coi thường công việc mình đã nhận lãnh nhưng luôn tìm cách làm tốt đẹp nhất và sẵn sàng sửa chữa những thiếu sót trong công việc cũng như những thiếu sót của chính bản thân.
10. SỰ ĐIỀM ĐẠM
Điềm đạm là thói quen làm chủ được mình, không để cho hoàn cảnh ngoại tại cũng như nội tại làm mất sự trầm tĩnh sáng suốt và tác phong nhu nhã đúng mực của mình. Người điềm đạm là người vẫn có tình cảm rất bén nhạy, nhưng họ biết điều khiển được mọi ảnh hưởng bên ngoài, không để mình mất thăng bằng do vui quá hay buồn quá. Những ảnh hưởng bên ngoài dù mãnh liệt đến đâu cũng không làm thay đổi được sự nhu nhã bên ngoài cũng như sự bình tĩnh sáng suốt bên trong và sự kiên quyết hướng về lý tưởng của mình.
Muốn có được đức điềm đạm, giáo lý viên cần phải bình tĩnh và đúng mực trong mọi hành động, không bất bình với ai dù là với kẻ dưới, với kẻ thù, kẻ nhục mạ mình và không làm gì có thể chạm tự ái của người khác.
Khi có đức điềm đạm, giáo lý viên sẽ không quá lo đến kết quả theo ý mình đến nỗi bất an. Đương nhiên Ta phải cố gắng làm cho được điều mình muốn, nhưng khi đã dùng hết mọi cách mà không đạt kết quả mong muốn, chắc chắn ta cũng sẽ đựơc đền bù bằng một kết quả khác cho dù bên ngoài có gặp thất bại.
11. CƯƠNG NHU
Cương nhu là biết tùy người, tùy việc, tùy hoàn cảnh mà đối xử. Tốt nhất là nên dùng nhu vì mềm mỏng bao giờ cũng dễ thuyết phục hơn là cường bạo. Thường thì người biết cư xử mềm dẻo mới là người có tinh thần cao độ. Người thích dùng sức mạnh thường là người yếu và sợ, vì yếu và sợ nên mới dùng sức mạnh để trấn áp kẻ khác, từ đó sinh ra đụng chạm, mất bầu khí an hòa. Thật ra cũng có lúc phải dùng cương, nhưng dùng thế nào để cho người khác thấy đó chỉ là tình thương và lòng ước muốn cho người khác nên tốt hơn.
12. BIẾT ẤN ĐỊNH CHUẨN MỰC CAO
Khi quyết định làm một công việc gì, hãy chuẩn bị kỹ càng, cần định hướng cho đúng, tạo điều kiện tốt và đặt chuẩn mực cao để tiến tới. Tuy nhiên việc đặt chuẩn mực phải cụ thể, thích hợp và có khả năng thực hiện được. Nếu kết quả kém của công việc mà đã làm ta vừa lòng, thì sẽ khó đạt được một kết quả nào khá hơn.
13. TỰ TIN
Ngườitự tin là biết nhận ra những khả năng của mình và tin tưởng rằng nếu biết tận dụng những khả năng đó, mình sẽ thành công trên đường đời, trở thành người hữu ích. Người tự tin là người khi thi hành một việc gì thì đem tất cả tin tưởng và an tâm thực hiện cho đến khi đạt thành quả tốt đẹp mới thôi. Nếu có gặp trục trặc, họ sẽ suy nghĩ thêm hoặc đi bàn hỏi với những người giầu kinh nghiệm để lại tiếp tục cho đến khi đạt được mục đích.
14. KHIÊM TỐN
Người khiêm tốn là người biết rõ khả năng, những sở trường, sở đoản của mình để sử dụng đúng lúc. Người có khiêm tốn không tự mãn nhưng luôn thận trọng và học hỏi không ngừng. Biết cách thu thập ý kiến hay của kẻ khác và biết phòng xa tiên liệu chứ không chỉ dựa vào khả năng và sự hiểu biết của mình.
15. LẠC QUAN
Lạc quan là thói quen nhìn người khác và nhìn đời bằng cặp mắt vui tươi phấn khởi. Lạc quan không phải là ảo tưởng, không thấy được những mặt trái của cuộc đời. Trái lại người lạc quan thấy rõ tính đa diện và những giới hạn của con người, nhưng vì họ có sức khỏe tinh thần, có lòng bao dung và có niềm tin nên dù đối diện với những khó khăn phức tạp, họ vẫn giữ được sự vui tươi, phấn khởi để bình tĩnh vượt qua mọi trở ngại.
Giáo lý viên cần luyện tập đức tính lạc quan để không bị chán nản hay thoái lui khi gặp những khó khăn, hiểu lầm trong khi thi hành sứ mệnh.
16. ĐỨC THU TÂM
Đức thu tâm là khả năng thu phục lòng người, biết cởi mở và hiệp nhất với người khác, vì thế cần phải :
– Dễ quen được với bất kỳ ai ta gặp gỡ, tiếp xúc, dù là quen hay lạ, già hay trẻ, bạn hay thù…
– Dễ cộng tác được với người khác, nhất là những người giỏi hơn mình. Thành công không phải là nhằm trổi vượt hơn kẻ khác để rồi khoe khoang tự hào với sự trổi vượt này. Sự tự hào đó chỉ làm ta xa cách tha nhân, làm mất cảm tình của họ và mất luôn hạnh phúc của ta. Thành công chỉ có giá trị và tạo thành hạnh phúc cho ta khi giúp ta chia sẻ, cảm thông và hiệp nhất được với tha nhân, nhất là với những người trổi vượt hơn ta..
– Luôn tỏ ra quý trọng người khác bằng cách lắng nghe với tất cả tấm lòng. Biết đặt mình vào vị trí của người khác để hiểu và thông cảm. Không bao giờ lên án, nhưng luôn hòa nhã và niềm nở để giúp người khác tự do, thoải mái, không có gì phải sợ, nhờ đó họ dễ dàng phát huy những tiềm năng của họ.
KẾT :
Để có thể chung tay góp sức xây dựng thế hệ tương lai, chắc chắn giáo lý viên phải chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết về mặt đức tính, kiến thức và tài năng. Kiến thức và tài năng thì cần thiết nhưng đức tính thì quan trọng hơn. Ta có thể nói rằng : giá trị thật của con người là ở nhân cách. Nhiều người có tài năng, kiến thức sâu rộng nhưng nếu chưa đủ phần nhân bản thì chưa gọi là một con người có nhân cách và đạo đức. Một người lãnh đạo tốt trước hết phải là người tốt, có đức độ, có ý thức trách nhiệm cao, có uy tín và được mọi người kính nể.
Khi làm bất cứ một việc to nhỏ nào, người ta cũng cần có thời gian chuẩn bị, huống chi để đạt thành công trong một nhiệm vụ cao cả được Thiên Chúa và Giáo Hội ủy nhiệm, giáo lý viên không thể coi thường việc trau dồi những vốn liếng cần thiết cho sứ mệnh mình. Ngày nay, chủ nghĩa cá nhân ngày càng được coi trọng, vì thế mối liên hệ giữa người với người hình như đang lỏng lẻo và phai nhạt dần. Người ta đang phải nhấn mạnh nhiều đến tình đoàn kết, chia sẻ và yêu thương, bởi vì cái “Tôi” đang trở thành trung tâm của mọi sự hiểu biết và mọi lẽ phải. Và, một khi mọi cái đều ưu tiên cho cái “Tôi”, thì người ta dễ khoan dung rộng rãi với chính mình mà khe khắt với mọi người.
Để có một khả năng làm việc tốt và dễ thành công trong sứ mệnh, giáo lý viên nên nghiêm túc với bản thân bằng cách luôn xét lại cung cách sống và lối làm việc của mình để có thể gọt dũa những thiếu sót. Vì với bản chất tự nhiên không được tu bồi, giáo lý viên khó có thể sống sung mãn nhân cách của mình. Nhân cách càng cao, chúng ta càng dễ thành công.
BÀI 8 II. CÁC ĐỨC TÍNH NHÂN BẢN DỰA TRÊN CƠ SỞ VĂN HÓA DÂN TỘC
Việc đào tạo con người tự nhiên được triển khai theo bộ khung luân lý dân tộc :
1. Nhân : Là nhân đức dạy ta biết yêu thương, tha thứ, kính trọng, quan tâm giúp đỡ, quảng đại và khoan dung.
– Đức nhân dựa trên nền tảng Chúa là Tình yêu, ai yêu thương nhau thì ở trong Thiên Chúa.
– Xét về tự nhiên thì « Tứ hải giai huynh đệ » : người trong bốn biển đều là anh em. Người có lòng nhân luôn cổ võ tình thương nhân loại.
– Người có lòng nhân luôn biết chạnh thương, dám chịu thiệt thòi vì dám tin rằng cuối cùng thì « Tình yêu sẽ’ thắng ».
2. Nghĩa : Là biết ơn, khiêm nhường trong lòng, hiếu khách, phục vụ vô vị lợi, có tinh thần trách nhiệm, vâng lời, quý trọng các giá trị gia đình, yêu quê hương dân tộc, làm việc chung, hy sinh vì ích chung.
– Biết ơn còn là sự hiểu biết và bày tỏ điều mình nhận biết về giá trị tinh thần cũng như vật chất.
– Biết ơn để xứng đáng là người hơn, để xứng đáng với ơn đã lãnh nhận và để xứng đáng nhận thêm các ơn khác.
3. Lễ : Là lịch sự vui vẻ và khiêm tốn trong xử thế, kính trọng người trên, ôn tồn nhã nhặn, biết tôn trọng người và tôn trọng chính mình trong cách cư xử giao tiếp. Nền tảng của phép lịch sự là công bằng, bác ái và cái hồn của lịch sự là sự chân thành.
4. Trí : Hiếu học, cầu tiến, cân nhắc, khôn ngoan, suy nghĩ chín chắn, phán đoán chính xác và biết tiên liệu vấn đề. Người có đức Trí luôn có sáng kiến, có những tư tưởng mới lạ và độc đáo, biết khám phá ra những điều mới lạ đem lại lợi ích cho xã hội và bản thân. Ngoài ra họ còn là người biết tổ chức làm sao cho công việc đỡ tốn thời giờ, tiền bạc, nhân lực mà vẫn có được kết quả tối đa.
5. Tín : Thành thật, đúng giờ, giữ lời hứa cho dù gặp biến cố hay trắc trở, trung tín từ trong việc nhỏ. Người trung tín luôn trung tín với Thiên Chúa, với Giáo Hội, với tha nhân, với bản thân và với bổn phận
6. Cần : Chuyên cần chăm lo bổn phận hiện tại, siêng năng học hành, làm việc chu đáo từ trong việc nhỏ, làm cho đến khi hoàn tất. Làm một cách vui tươi, mau mắn và kỹ lưỡng. Chuyên cần chính là chiếc chìa khóa đầu tiên mở ra cánh cửa tương lai, là một trong những bí quyết thành công trong cuộc sống.
7. Kiệm : Là tiết kiệm, tiết độ, chừng mực, hạn chế đúng mức. Không hoang phí trong việc sử dụng tiền của – sức khỏe – thì giờ.
8. Liêm : Là thanh liêm,trong sạch cả thể xác lẫn tâm hồn, yêu nghèo khó, không tham lam từ trong tư tưởng, lời nói cũng như hành động. Người thanh liêm là người trong sạch trong khi thi hành nghĩa vụ, không tham nhũng, hối lộ.
9. Chính : Ngay thẳng, công bằng, đơn sơ, cởi mở. Đối với nhà giáo dục thì Chính là sống theo công lý không thiên tư tây vị, không tự dối lòng mình cũng như dối gạt người khác. Trong cư xử, ngôn ngữ và hành động luôn tỏ ra thành thực, tín nghĩa. Đức Chính Trực là đức tính cần thiết của người lãnh đạo, để quản trị và hướng dẫn nghiêm minh.
10. Dũng : Kỷ luật, kiên trì, trật tự, nhẫn nại, tự tin, khắc phục mọi nỗi lo âu sợ hãi, bình tĩnh trước mọi vấn đề, không để sở thích điều khiển mình, cố gắng và tự lập. Người có Dũng là người có nghị lực kiên cường biết làm chủ lấy mình trong mọi tình huống, luôn hành động theo lý trí, quyết tâm theo đuổi mục tiêu đến cùng.
BÀI 9 III. MƯỜI HAI GIÁ TRỊ NHÂN BẢN THEO UNESCO
1. HÒA BÌNH
• Hòa bình là không còn chiến tranh.
• Thế giới hòa bình lớn mạnh thông qua phi bạo lực, sự chấp nhận, sự công bằng và giao tiếp.
• Hòa bình bắt đầu từ mỗi người trong chúng ta.
• Nếu mỗi người có sự hòa bình, thì cả thế giới sẽ hòa bình.
• Sự xác thực của hành động phụ thuộc vào sự xác thực của con người.
• Hòa bình là một trạng thái tinh thần bình an và thư giãn.
• Hòa bình là sự yên lặng bên trong cùng với sức mạnh của chân lý.
• Hòa bình bao gồm có các tư tưởng, tình cảm và ước muốn trong sáng.
• Sự trong sáng không phải là vắng bóng hỗn loạn mà là bình an trong đó.
• Để giữ được hòa bình đòi hỏi lòng trắc ẩn và sức mạnh.
• Hòa bình là đặc trưng nổi bật của những gì mà chúng ta gọi là “một xã hội văn minh”.
• Hòa bình cần phải bắt đầu từ mỗi người trong số chúng ta. Thông qua sự suy gẫm lặng lẽ và nghiêm túc về ý nghĩa của nó, các cách thức mới và sáng tạo có thể được phát triển và nuôi dưỡng sự hiểu biết, tình bạn và hợp tác giữa tất cả mọi người.
Thảo luận:
• Khi nào bạn cảm thấy bất an ? Khi bất an, các loại suy nghĩ và hoạt động nào giúp bạn cảm thấy bình yên hơn ?
• Tại sao hòa bình lại bắt đầu ở mỗi chúng ta ?
2.TÔN TRỌNG
• Bẩm sinh con người là quý giá.
• Một phần của lòng tự trọng là biết về các phẩm chất của mình.
• Tôn trọng bản thân là hạt giống để sự tự tin lớn lên.
• Khi chúng ta tôn trọng bản thân, ta sẽ dễ dàng tôn trọng người khác.
• Hiểu biết về giá trị tự nhiên của mình và tôn trọng giá trị của người khác là cách thức đích thực để có được sự tôn trọng.
• Những ai biết tôn trọng sẽ được tôn trọng.
• Khi có sức mạnh của sự khiêm tốn trong việc tôn trọng bản thân, sự thông thái sẽ phát triển, chúng ta sẽ công bằng với người khác.
• Mọi người trên thế giới kể cả bản thân tôi, đều có quyền sống được tôn trọng và có nhân phẩm.
Thảo luận :
• Hãy tưởng tượng xem thế giới này sẽ như thế nào nếu tất cả mọi người đều tôn trọng lẫn nhau ?
• Hãy viết ra những phẩm chất mà bạn khâm phục ở những bạn bè của mình.
• Những loại hành động nào giúp bạn giữ được sự tôn trọng.
Bài tập sinh hoạt : Đề nghị học viên làm một bản minh họa về sự tôn trọng vào nửa trang giấy và hậu quả của sự thiếu tôn trọng vào nữa trang còn lại. Đề nghị họ làm theo nhóm đôi hoặc nhóm 4 người.
3.TÌNH YÊU
• Trong một thế giới tốt hơn, quy luật tự nhiên là tình yêu; và trong một con người tốt hơn, bản chất tự nhiên là yêu thương.
• Tình yêu phổ quát không có biên giới hoặc sự thiên vị ; tình yêu thể hiện tới tất cả mọi người.
• Luật pháp thực sự sống trong lòng tốt của trái tim chúng ta. Nếu trái tim của chúng ta trống rỗng thì không luật pháp hay cải cách chính trị nào có thể lấp đầy nó được.
• Tình yêu không đơn giản là một sự thèm muốn, say mê, một cảm giác căng thẳng về một người hoặc một vật, mà là một sự ý thức về quên mình và hoàn thiện mình cùng một lúc.
• Nhiệm vụ của chúng ta là giải phóng mình… bằng cách mở rộng vòng tay trắc ẩn để ôm tất cả nhân loại và thiên nhiên vào lòng.-Albert Einstein.
• Tình yêu có thể dành cho đất nước của mình, cho một mục đích yêu dấu, cho chân lý, cho sự công bằng, cho đạo đức, cho con người và cho thiên nhiên.
• Yêu thương có nghĩa là tôi có thể trở thành người tốt bụng, ân cần và hiểu biết người khác.
• Khi tôi cảm thấy lòng mình mạnh mẽ, lúc đó that dễ dàng để yêu thương.
• Tình yêu là nhìn nhận mỗi người tốt đẹp hơn.
• Tình yêu thực sự sẽ bảo đảm lòng tốt, sự ân cần, sự hiểu biết và xóa bỏ những hành vi ghen tỵ và kiểm soát (người khác).
Đề nghị học sinh vẽ một tượng trưng về một thế giới yêu thương hoặc sáng tác một bài thơ.
4.KHOAN DUNG
• Hòa bình là mục đích, khoan dung là phương pháp.
• Khoan dung là sự cởi mở và sự chấp nhận vẻ đẹp của những sự khác biệt.
• Khoan dung chấp nhận cá tính và sự đa dạng của con người trong khi loại bỏ những mặt nạ phân cách và làm giảm sự căng thẳng được tạo ra bởi sự thiếu hiểu biết. Nó cung cấp khả năng phát hiện và loại bỏ những khuôn mẫu và tì vết liên hệ với con người được coi là khác biệt vì chủng tộc, tôn giáo hoặc di sản.
• Khoan dung là sự tôn trọng lẫn nhau thông qua sự hiểu biết lẫn nhau.
• Nguyên nhân của việc không khoan dung là sự sợ hãi và sự thiếu hiểu biết.
• Hạt giống của khoan dung là tình yêu; nước (để nó nảy mầm) là lòng trắc ẩn và sự quan tâm, chăm sóc.
• Khi nào thiếu tình yêu thì thiếu lòng khoan dung.
• Những ai biết đánh giá điều tốt trong mọi người và những tình huống là những người có lòng khoan dung.
• Khoan dung là khả năng đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn
Thảo luận :
1. Giữa bình an của cá nhân và khoan dung có mối quan hệ nào không ? Bạn nghĩ nó có thể là gì ?
2. Con người phân biệt đối xử theo nhiều cách – Họ thành kiến điều gì ? Hãy xét xem chúng ta có thể đặt tên cho bao nhiêu điều. Con người phân biệt đối xử dựa trên cơ sở…? (Thường thì mọi người sẽ nêu tên : Chủng tộc, tôn giáo, màu da và văn hóa)
5.TRUNG THỰC
• Trung thực là luôn nói sự thực.
• Khi tôi trung thực, tôi cảm thấy trong lòng sáng tỏ.
• Một người đáng được tin cậy là một người người thật thà trung thực.
• Trung thực có nghĩa là không có sự mâu thuẫn và trái ngược nhau trong các suy nghĩ, lời nói hay hành động.
• Những hành động, lời nói, suy nghĩ trung thực tạo nên sự hài hòa.
• Trung thực là sự nhận thức về những giá trị đúng đắn và thích hợp trong vai trò, hành vi các mối quan hệ của một người .
• Với sự trung thực thì không có đạo đức giả hay sự giả tạo tạo nên sự nhầm lẫn và thiếu tin cậy trong tâm trí và cuộc sống của những người khác.
• Trung thực làm cho cuộc sống toàn vẹn bởi vì bên trong và bên ngoài chúng ta là một hình ảnh phản chiếu .
• Trung thực để sử dụng tốt những gì người ta cậy trông vào bạn .
• Có mối quan hệ sâu sắc giữa sự trung thực và tình bạn.
• Một con người trung thực biết rằng chúng ta tất cả đều có liên hệ với nhau.
1. Đề nghị mỗi học sinh sưu tập một câu chuyện về trung thực và tham nhũng từ sách vở, báo chí hoặc radio.
2. Đề nghị các nhóm đóng một vở kịch với chủ đề trung thực và thiếu trung thực.
6. KHIÊM TỐN
• Khiêm tốn được dựa trên lòng tự trọng.
• Khiêm tốn cho phép mình lớn lên với phẩm giá và lòng chính trực – không cần đến những bằng chứng của một thể hiện bên ngoài.
• Khiêm tốn làm cho lòng kiêu ngạo biến mất.
• Khiêm tốn cho phép một sự nhẹ nhàng trong khi đối mặt với các thách thức .
• Khiêm tốn là một giá trị – ở mức cao nhất của nó – là chấp nhận sự quên mình và phẩm giá trong việc làm vì một thế giới tốt hơn.
• Người khiiêm tốn lắng nghe và chấp nhận những người khác.
• Khiêm tốn là giữ được sự ổn định và duy trì sức mạnh bên trong và không cần phải kiểm soát người khác ở bên ngoài .
• Khiêm tốn loại trừ những sở hữu tạo nên các bức tường của tính tự cao tự đại.
• Khiêm tốn làm cho một người trở nên tuyệt vời trong trái tim người khác.
• Khiêm tốn tạo nên một tâm trí cởi mở và sự thừa nhận những sức mạnh của bản thân và người khác. Sự kiêu ngạo làm thiệt hại hay hủy hoại việc đánh giá tính độc đáo của người khác và vì thế là một sự vi phạm tinh vi các quyền cơ bản của họ.
Thảo luận :
• Tại sao đôi khi chúng ta muốn huênh hoang ? Chúng ta muốn gì?
• Có cách nào khác để đạt được điều mà chúng ta muốn ?
7.HỢP TÁC
• Sự hợp tác tồn tại khi mọi người làm việc cùng nhau cho một mục đích chung.
• Việc hợp tác đòi hỏi thừa nhận giá trị về sự đóng góp của mỗi người và có một thái độ tích cực .
• Ai hợp tác người đó sẽ tạo nên những mong muốn tốt đẹp và tình cảm trong sáng cho người khác và cho công việc.
• Khi hợp tác, có một nhu cầu cần biết điều gì là cần thiết. Đôi khi chúng ta cần một ý tưởng, đôi khi cần hỏi để cho ý tưởng của chúng ta trôi đi. Đôi khi chúng ta cần phải dẫn dắt, và đôi khi chúng ta cần phải đi theo.
• Sự hợp tác được quản lý bởi nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau.
• Người nào hợp tác sẽ nhận được sự hợp tác.
• Ơ đâu có tình yêu, ở đó có sự hợp tác.
• Lòng can đảm, sự quan tâm, chăm sóc và chia sẻ tạo nên một nền tảng cho sự hợp tác.
• Ý thức về giá trị của mình, tôi có thể hợp tác.
Thảo luận :
1. Có phải đôi khi tất cả chúng ta đêu cần sự hợp tác không?
2. Bạn cảm thấy thế nào khi có người giúp đỡ và cảm thấy thế nào khi người giúp đỡ bạn tỏ ra gắt gỏng và giận dữ với bạn ?
3. Bạn có thể hợp tác với ai ?
4. Lập một danh sách những điều bạn thấy dễ hợp tác.
8.HẠNH PHÚC
• Hãy trao và nhận hạnh phúc.
• Khi có tình yêu và bình an trong lòng, hạnh phúc sẽ tự động tăng thêm.
• Khi có cảm giác hy vọng và mục đích thì có hạnh phúc.
• Có mong muốn tốt lành cho tất cả mọi người sẽ mang lại hạnh phúc trong lòng.
• Hạnh phúc không thể mua, bán hay mặc cả.
• Hạnh phúc có được qua thái độ và hành vi trong sáng và vị tha, không ích kỷ.
• Hạnh phúc của tâm hồn là trạng thái bình an trong đó không có rối loạn và bạo lực
• Những lời nói tốt lành và xây dựng tạo nên một thế giới hạnh phúc hơn.
• Khi một người hài lòng với bản thân, hạnh phúc sẽ tự nhiên đến.
• Hạnh phúc lâu dài là một trạng thái hài lòng từ bên trong.
Thảo luận :
1. Hạnh phúc đích thực là gì ?
2. Liệu chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc của mình không ?
3. Làm một liệt kê những điều mang lại hạnh phúc.
4. Xét về hạnh phúc, con người tác động lẫn nhau như thế nào ?
5. Những điều gì người khác nói mà làm bạn hạnh phúc ?
6. Bạn muốn nghe điều gì ? Bạn không muốn nghe điều gì ?
9. TRÁCH NHIỆM
• Trách nhiệm là thực hiện phần đóng góp của mình.
• Trách nhiệm là chấp nhận những đòi hỏi và thực hiện nhiệm vụ với khả năng tốt nhất của mình.
• Một người có trách nhiệm thực hiện bổn phận được giao bằng cách luôn luôn chân thực với mục tiêu. Những bổn phận được tiến hành với sự lương thiện và ý thức về mục đích.
• Nếu chúng ta muốn có một thế giới trong lành, chúng ta có trách nhiệm chăm sóc thiên nhiên.
• Khi một người có trách nhiệm, có nghĩa là họ bằng lòng đóng góp công sức của mình.
• Là một người có trách nhiệm, tôi có một điều gì đó đáng giá cho những người khác và họ cũng vậy.
• Một người có trách nhiệm biết thế nào là công bằng, thấy rằng mỗi người nhận được phần của mình.
• Có quyền lợi, nghĩa là có trách nhiệm.
• Trách nhiệm không có nghĩa là những gì ràng buộc chúng ta, mà còn là những gì cho phép ta đạt được những điều mình muốn.
• Mỗi người đều nhận thức thế giới theo cách riêng của mình và tìm kiếm sự cân bằng về quyền lợi và trách nhiệm.
• Trách nhiệm đối với toàn cầu đòi hỏi sự kính trọng đối với toàn thể nhân loại.
• Trách nhiệm là sử dụng toàn bộ nguồn lực của chúng ta để tạo ra một sự thay đổi tích cực.
Đề nghị một vài học sinh chia sẻ những kinh nghiệm khi chu toàn hoặc khi không chu toàn trách nhiệm của họ.
10. GIẢN DỊ
• Giản dị là tự nhiên.
• Giản dị là đẹp.
• Giản dị là thư giãn.
• Giản dị là sống với hiện tại và đừng làm mọi thứ phức tạp lên.
• Giản dị là việc mang lại sự kiên trì, tình bạn, và sự khuyến khích.
• Giản dị là việc cảm nhận những điều nhỏ bé trong cuộc sống của chúng ta.
• Giản dị là việc vui hưởng một tâm trí và trí tuệ mộc mạc, chất phác.
• Giản dị là kêu gọi bản năng, trực giác và khả năng nhìn thấu bản chất sự việc để tạo ra các suy nghĩ tinh túy và các cảm xúc đồng cảm.
• Giản dị là cảm nhận vẻ đẹp bên trong và nhận ra giá trị của tất cả mọi người, ngay cả những người nghèo nàn và khó khăn nhất.
• Giản dị là người tiên phong cho sự phát triển bền vững.
• Giản dị dạy chúng ta tiết kiệm – sử dụng nguồn lực như thế nào để vì cả lợi ích của các thế hệ tương lai.
• Giản dị kêu gọi mọi người suy nghĩ lại những giá trị của mình.
Thảo luận :
1. Bạn thích thú những điều đơn giản nào ?
2. Những điều nào bạn thích mà tốn ít tiền hoặc không mất tiền ?
3. Khi nào cuộc sống trở nên quá phức tạp ?
4. Chúng ta làm cuộc sống quá phức tạp thế nào ?
11.TỰ DO
• Tự do nằm trong trí óc và trái tim.
• Tự do có thể bị hiểu lầm là một cái ô rộng lớn và không có giới hạn cho phép “làm những gì tôi muốn, khi nào tôi muốn, với bất kỳ ai tôi muốn”. Khái niệm này mang tính chất đánh lừa và lạm dụng sự lựa chọn.
• Xâm phạm các quyền của một hay nhiều người để có tự do cho bản thân, gia đình hoặc dân tộc là một sự lạm dụng tự do. Loại lạm dụng này thường phản tác dụng, rốt cuộc áp đặt một điều kiện cản trở, và trong một số trường hợp là sự áp bức – cho những người bị lạm dụng và người lạm dụng.
• Tự do đầy đủ chỉ vận hành khi các quyền được cân bằng với trách nhiệm và sự chọn lựa được cân bằng với lương tâm.
• Tự do bên trong là được giải phóng khỏi những lầm lẫn và phức tạp trong tâm trí, trí tuệ và trái tim vốn nảy sinh từ những điều tiêu cực.
• Tự do bên trong được trải nghiệm khi tôi có những suy nghĩ tích cực đối với tất cả người khác kể cả bản thân tôi.
• Tự do là một quá trình đang diễn ra. Làm thế nào chúng ta có thể tạo ra và duy trì nó ?
• Tự biến đổi bản thân là sự bắt đầu của quá trình biến đổi thế giới. Thế giới sẽ không thoát khỏi chiến tranh và bất công cho đến khi bản thân các cá nhân được tự do.
Thảo luận :
1. Khi nào thì bạn cảm thấy tự do nhất ?
2. Hiện nay chúng ta có những dạng tự do nào ?
3. Những quyền nào mọi người cảm thấy bị từ chối ?
12.ĐOÀN KẾT
• Đòan kết là sự hài hòa bên trong và giữa các cá nhân trong một nhóm.
• Đoàn kết được xây dựng từ một tầm nhìn, hy vọng và mục đích vị tha chung hoặc là một sự nghiệp vì những điều tốt đẹp chung.
• Đoàn kết làm cho những nhiệm vụ to lớn có vẻ dễ dàng.
• Sự đoàn kết bắt nguồn từ tinh thần bình đẳng và thống nhất. Sự vĩ đại của đoàn kết là ở chỗ tất cả mọi người đều được tôn trọng.
• Đoàn kết tạo nên những kinh nghiệm hợp tác, nâng cao sự nhiệt tình đối với công việc và làm cho bầu không khí trở nên có sức mạnh.
• Đoàn kết truyền cảm hứng cho trách nhiệm cá nhân mạnh hơn và những thành tựu tập thể lớn hơn.
• Một dấu hiệu thiếu tôn trọng có thể làm cho đoàn kết bị đổ vỡ. Việc ngắt lời người khác, đưa ra những phê phán liên tục và thiếu tính xây dựng, theo dõi người khác hoặc kiểm soát người khác đều là những âm thanh rất khó nghe đập mạnh vào các mối quan hệ.
• Đoàn kết tạo ra cảm giác thuộc về và nâng cao hạnh phúc cho tất cả.
• Việc tạo dựng nên sự đoàn kết trên thế giới đòi hỏi mỗi cá nhân phải nhìn nhận tất cả những người khác như gia đình của mình và tập trung vào những đường hướng và giá trị tích cực.
Chia sẻ các câu chuyện hoặc các nghiên cứu của bạn về những động vật có sự đoàn kết mạnh mẽ.
BÀI 10 PHẦN III : HUẤN LUYỆN THẦN HỌC
Trong thời đại chúng ta đang sống, mọi thứ đều thay đổi nhanh chóng : từ niềm tin, tư tưởng đến những văn minh vật chất, do đó các tín hữu đều mong tìm thấy nơi Giáo Hội những lời dạy dỗ rõ ràng và những hướng dẫn vững chắc cho việc sống đạo và việc truyền đạt những chân lý của đạo cho người khác. Vì vậy, công việc huấn luyện Thần học cho các giáo lý viên càng ngày càng quan trọng, nó hệ tại việc giúp họ có khả năng suy tư Thần học cách hợp lý và chính xác, biết nối kết mọi lãnh vực của thần học vào một điểm quy chiếu độc nhất là Lời Chúa (bởi vì Lời Chúa mang chiều kích thiết yếu trong giáo lý), và từ những hiểu biết thần học đó, giáo lý viên biết tự nguyện đi vào mối tương quan sống động với Đức Kitô và biết minh họa những lý thuyết trừu tượng bằng một đời sống đức tin cụ thể.
Thần học là một khoa học về Thiên Chúa, nghĩa là trình bày những quan điểm, những hiểu biết của con người về Thiên Chúa qua Kinh Thánh, qua Thánh Truyền và qua những suy tư cá nhân về Thiên Chúa. Thần học cung cấp rất nhiều kiến thức, dựa trên lý luận chặt chẽ để nói về Thiên Chúa. Trong khi đó, giáo lý dù vẫn dựa trên những điểm thần học cơ bản, nhưng luôn nhắm đến lòng tin, cậy, mến chân thành của con người đối với Thiên Chúa và được thể hiện ra bằng đời sống cụ thể tốt lành. Thần học và Giáo lý đều có chung một nguồn mạch là Lời Chúa và cùng trình bày Lời Chúa. Nhưng xét về chuyên môn và phương pháp thì Thần học và Giáo lý có những điểm khác nhau. Chúng ta nêu lên một vài khác biệt giữa Thần học và Giáo lý[1] :
– Thần học thiên về các ý niệm và dùng ngôn ngữ trừu tượng trong triết học – Giáo lý dùng hình ảnh, ngôn ngữ cụ thể, thường ngày theo văn hóa, trình độ.
– Thần học có tính uyên bác, đi vào chuyên môn, nghiên cứu theo thứ tự – Giáo lý có tính đơn giản, thực dụng và gần với đời sống con người.
– Thần học hệ thống hóa các tư tưởng theo luận lý- Giáo lý chú trọng đến nhu cầu tâm lý con người.
– Thần học theo đường lối phân tích : Thiên Chúa, Chúa Kitô, Giáo Hội, Ân sủng…. – Giáo lý có tính tổng hợp. Mỗi chương trình giáo lý cho từng tuổi đều mang một cái nhìn tổng hợp.
– Thần học theo phương pháp diễn dịch. Giáo lý theo phương pháp quy nạp.
– Thần học thỏa mãn lý trí về mặt nhận thức – Giáo lý trực tiếp cải thiện đời sống.
Như vậy, khi dạy giáo lý không phải là trình bày những kiến thức hấp dẫn về Thiên Chúa, nhưng là giúp người tín hữu trưởng thành trong đức tin, trở thành người con Chúa theo mẫu gương của Đức Kitô. Tuy nhiên, Một số khác biệt giữa Thần học và Giáo lý không cho phép chúng ta tách Giáo lý và Thần học như hai môn học riêng rẽ, nhưng Giáo lý luôn phải nằm trong chiều hướng của Thần học.
CHƯƠNG I : NỀN TẢNG THẦN HỌC
Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý số 240 dạy rằng: “Giáo lý viên không những là một nhân chứng nhưng còn là người thầy giảng dạy về đức tin. Việc đào tạo đầy đủ về Kinh Thánh và Thần học sẽ giúp cho giáo lý viên hiểu biết có hệ thống về thông điệp Kitô giáo, được nối khớp quanh mầu nhiệm trung tâm của đức tin là Đức Giêsu-Kitô.”
Nền tảng của mọi nền thần học Kitô giáo chính là Thánh Kinh. Ngoài ra, còn có những đạo lý, những quy luật tôn giáo được phát sinh trong lịch sử Giáo Hội. Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý số 240 xác định nội dung việc huấn luyện Thần học gồm có Thánh Kinh và Thánh Truyền.
I. THÁNH KINH
Thánh Kinh là nguồn mạch chính của giáo lý. Trong hiến chế Tín lý về Mạc khải, Giáo Hội nhấn mạnh đến “nguồn mạch của giáo lý là Lời Chúa” [2], được nói qua các Tổ phụ, các tiên tri và được mạc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý khẳng định : “Thánh Kinh là linh hồn của việc đào tạo Thần học.”[3] Như vậy giáo lý càng sát gần Thánh Kinh thì càng phong phú.
Qua Thánh Kinh, con người biết rõ những việc Chúa làm, những lời giáo huấn và những ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa Ba Ngôi trong lịch sử cứu độ. Và chính Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ ấy. Qua việc nhập thể, cái chết và phục sinh, Ngài đã thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa đối với con người. Tất cả những gì được nói đến trong Cựu ước đều là chuẩn bị và hướng về Đức Kitô. Tất cả những gì đến sau Đức Kitô đều là nối dài sự hoạt động và hiện diện của Đức Kitô trong lịch sử cứu độ.
Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói với con người bằng chính ngôn ngữ của con người trong quá khứ và cũng là điều Thiên Chúa đang nói với chúng ta hôm nay. Nhờ Thánh Kinh chúng ta biết được những hình thức tuyệt diệu Thiên Chúa nói với nhân loại qua bao thế kỷ. Kinh Thánh mạc khải ý muốn trường cửu của Thiên Chúa cho con người. Như vậy Kinh Thánh là một dấu chỉ rất đặc biệt của Lời Chúa và chính là nội dung mà giáo lý phải truyền đạt.
Theo cuốn Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý số 95, thì :
– “Lời Chúa đã được toàn thể dân Chúa suy gẫm và học hiểu cách sâu xa bằng sự nhạy bén của đức tin và dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội.
– Lời Chúa luôn được công bố, lắng nghe, nội tâm hóa và giải thích trong phụng vụ.
– Lời Chúa luôn tỏa sáng trong đời sống cũng như trong lịch sử của Giáo Hội, trong đời sống chứng tá của các kitô hữu và đặc biệt qua đời sống của các Thánh.
– Lời Chúa luôn được đào sâu trong những nghiên cứu thần học, là phương tiện giúp các tín hữu thăng tiến trong việc hiểu biết các mầu nhiệm đức tin.
– Lời Chúa được biểu lộ trong các giá trị tôn giáo và những nền đạo đức chân chính, vốn được phổ biến trong trong xã hội con người và trong các nền văn hóa khác nhau với đặc tính là “hạt giống” được gieo vào lòng con người”
Huấn luyện Thánh Kinh sẽ giúp giải thích đời sống con người hiện tại dưới ánh sáng các kinh nghiệm mà dân Israel, Đức Kitô và Giáo Hội đã sống.
VẬY GIÁO LÝ VIÊN CẦN TRAU DỒI THÁNH KINH THẾ NÀO ?
Dù biết rằng Thánh Kinh là trọng tâm của giáo lý nhưng nhiều người trong chúng ta lớn lên với một kiến thức giới hạn về Thánh Kinh. Hiện nay có nhiều đường hướng và phong trào hỗ trợ việc học hỏi Thánh Kinh, ngoài các khóa học về Thánh Kinh, giáo lý viên có thể tự học. Xin nêu lên ở đây một trong những phương pháp cụ thể giúp tự đọc Kinh Thánh. Phương pháp này nhằm giúp khám phá ý nghĩa đoạn Thánh Kinh qua việc : đọc, suy tư, cầu nguyện và quyết tâm hoán cải.
1. Mở bất kỳ một đoạn Kinh Thánh nào hay chọn một đoạn theo ý mình, đọc lần thứ nhất để làm quen với bản văn đó. Ghi nhận những tâm tình đã cảm nghiệm được.
2. Đọc lần hai, đọc chậm, sau đó lắng nghe xem có tiếng nói gì vang vọng trong tâm hồn ? Tự hỏi xem từng chữ, từng câu có ý nghĩa gì ? Cũng cần ghi lại những hiểu biết, những tâm tình có thêm và cả những vấn đề thắc mắc về bản văn nếu có.
3. Đọc lần 3, suy niệm và cầu nguyện theo câu truyện hoặc đoạn Kinh Thánh. Điều quan trọng là hiểu những điều vừa đọc và đem áp dụng ngay trong chính cuộc sống của mình hay trong bài giáo lý sẽ dạy. Đó mới thực sự hữu ích cho bản thân cũng như cho việc dạy giáo lý .
4. Nếu có thể, giáo lý viên nên đọc một đoạn Kinh Thánh nhiều lần, đọc với sự chú ý, đọc với lòng khao khát, với thái độ lắng nghe và để Lời Chúa chất vấn con người của mình. Khi có những câu nào ta cảm thấy ngượng, muốn tránh né, thì những câu đó càng có sức chữa bệnh cho mình, đây là điều chúng ta cần phải tiếp nhận. Vấn đề quan trọng là làm sao để Lời Chúa được vang dội nơi tâm hồn. Vì thế cần tạo khoảng không gian, bầu khí tốt để nội tâm hóa, suy tư, cầu nguyện, chiêm niệm và quyết tâm hành động, thực hiện dấn thân, đổi mới.
5. Nên có giờ để đọc hết chương bao gồm câu truyện, những câu nói liên quan đến đoạn chúng ta đang đọc. Điều này rất quan trọng để giúp ta thấy được toàn bộ bố cục Kinh Thánh và giúp hiểu rõ thêm ý nghĩa của đoạn văn ta trích đọc và trả lời những vấn nạn hoặc nêu lên những vấn đề mới.
Ngoài ra, khi đọc Thánh Kinh, ta không nên bỏ qua những lời giới thiệu, những phần tiểu dẫn và những chú thích trong sách Thánh : Ở đầu hay cuối sách Kinh Thánh thường có những phần chỉ dẫn như “cách thức đọc Kinh Thánh”, “cái nhìn sơ lược về lịch sử”, phụ lục chú thích, tự điển, bản đồ, và trước mỗi cuốn đều có những tiểu dẫn về tác giả và nguồn gốc.
Dưới mỗi trang đều có thêm phần chú thích. Những câu khó hiểu thường có những ký hiệu giúp ta tìm những chú thích ở cuối trang. Đồng thời ở lề cạnh bản văn có những ký hiệu giúp nhận ra những đoạn văn, hoặc câu khác liên quan. Những tham khảo này soi sáng thêm cho đoạn văn, và giúp ta hiểu được những liên hệ trong Kinh Thánh như thế nào.
Nói tóm lại, chúng ta nên dành thời giờ đọc Kinh Thánh để Lời Chúa có thể bén rễ sâu và đổi mới cuộc sống của ta. Áp dụng từng bước đơn giản này cho mỗi đoạn Lời Chúa mà ta sẽ dạy, nghĩa là đọc, suy tư, cầu nguyện và quyết tâm sống theo. Nhờ đó chúng ta sẽ tăng thêm kiến thức Kinh Thánh và sẽ cảm thấy tự tin khi hướng dẫn Lời Chúa cho các em, đồng thời ta sẽ cảm thấy nhu cầu phải học Kinh Thánh sâu xa hơn nữa.
II. THÁNH TRUYỀN
Ngoài Thánh Kinh, một phần mạc khải còn được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của Giáo Hội vì Thiên Chúa cũng ngỏ lời qua những khía cạnh khác của đời sống Giáo Hội. Ngay buổi đầu, do những cuộc trở lại đạo đông đúc, các tín hữu đã sớm thành hình những biểu thức đức tin nền tảng của Kitô giáo… Chúng ta biết được bản tóm lược đạo lý căn bản này qua Kinh tin kính.
1. KINH TIN KÍNH
Kinh Tin kính là bản tóm lược giáo lý nền tảng của đạo công giáo, được triển khai trong phần I sách Giáo lý công giáo. Thánh Cyrilô thành Giêrusalem nói về Kinh Tin kính như sau : “ Bản tổng hợp đức tin này được soạn thảo không theo ý kiến loài người, nhưng dựa trên những giáo lý quan trọng nhất của toàn bộ Thánh Kinh, để tạo nên một giáo huấn đức tin duy nhất”[4].
Theo Thánh Ambrôsiô thì : “Kinh Tin kính là dấu ấn tín thiêng liêng, là điều tâm niệm, là người canh giữ luôn hiện diện, chắc chắn đó là kho tàng của linh hồn chúng ta.”[5]
Kinh Tin kính được chia làm 3 phần :
• Tuyên xưng niềm tin Thiên Chúa Ngôi Cha và công trình sáng tạo kỳ diệu của Ngài.
• Tuyên xưng niềm tin vào Ngôi Hai là Chúa Con và mầu nhiệm cứu chuộc loài người.
• Tuyên xưng niềm tin vào Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba, Đấng thánh hóa con người.
Trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều bản tuyên xưng đức tin[6], nhưng có hai bản chiếm một địa vị đặc biệt trong đời sống Giáo Hội, đó là
– Kinh Tin kính của các Tông đồ (vì bản này được xem như bản tóm lược trung thành đức tin của các Tông Đồ).
– Kinh Tin kính của Công đồng Nicêa Constantinôpoli (được coi là quan trọng vì phát xuất từ hai Công đồng đầu tiên (325 và 381).
Khi đọc Kinh Tin kính, Giáo Hội tuyên xưng mầu nhiệm Ba Ngôi và ý định nhân từ của Ngài. Khi đọc kinh Tin kính với niềm xác tín, chúng ta được thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi và toàn thể Giáo Hội, vì Giáo Hội truyền đạt đức tin cho chúng ta và chính chúng ta sống niềm tin của mình vào Thiên Chúa giữa lòng Giáo Hội.
2. PHỤNG VỤ
Niềm tin của người kitô hữu được diễn tả qua việc cử hành phụng vụ. Tất cả các mầu nhiệm Kitô giáo được loan truyền trong giáo lý và được cử hành trong phụng vụ. Do đó việc huấn luyện phụng vụ sẽ giúp các tín hữu sống kinh nghiệm tôn giáo của con người trải qua bao thế kỷ.
Qua phụng vụ, chúng ta đi sâu vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, chúng ta lắng nghe Lời Chúa được công bố và diễn giải, rồi chúng ta nói, hát, hành động để đáp lại Lời Chúa.
Vì vậy giáo lý và phụng vụ liên kết chặt chẽ với nhau. Tương quan này rất sống động nhưng thường trong thực tế ta không dễ thấy được điều đó. Phụng vụ và giáo lý cũng bổ túc cho nhau :
– Giáo lý chuẩn bị người ta tham dự phụng vụ cách tích cực và sống động qua việc giúp đỡ họ hiểu biết về các mầu nhiệm được cử hành cũng như hiểu biết về bản chất, nghi lễ và dấu chỉ của phụng vụ.
– Phụng vụ làm cho giáo lý trở thành cụ thể, sống động, giúp sự hiểu biết bằng trí tuệ thành cảm nghiệm bằng tâm hồn. Do đó phụng vụ có một giá trị sư phạm rất lớn trong lãnh vực giáo lý.
Kinh nghiệm cho thấy rằng giáo lý và phụng vụ liên kết với nhau trong bốn lãnh vực :
• Thái độ của người Kitô hữu. Qua giờ giáo lý, giáo lý viên là người khuyến khích và giúp người khác biết cầu xin, tạ ơn, sám hối, phó thác và cởi mở tâm hồn với Thiên Chúa trong các giờ phụng vụ và trong đời sống hằng ngày. Những tâm tình này chính là hồn sống của phụng vụ… Chẳng hạn, nếu không có thái độ tạ ơn thì bí tích Thánh Thể sẽ thiếu đi cái hồn của nó. Nếu không có lòng sám hối thực thì sẽ không có bí tích hòa giải. Vì thế, để đạt tới chiều sâu trong khi cử hành phụng vụ, giáo lý viên cần thiết phải nuôi dưỡng những “thái độ phụng vụ” này nơi chính mình và nơi các học viên giáo lý của mình. Chúng ta thực hiện điều này bằng gương sáng của mình hơn là chỉ bằng việc cổ vũ bên ngoài
• Nhạy cảm với các dấu chỉ. Phụng vụ được thể hiện qua các hành động và các sự vật mang tính chất biểu tượng như làm dấu, bẻ bánh, phép lành, xức dầu thánh, nước, lửa…
Con người ngày nay sống trong môi trường khoa học, điện toán là những gì có thể thử nghiệm, đong đếm, mua bán hơn là những cảm nghiệm, lễ nghi và các dấu chỉ… Vì thế giáo lý viên cần học hỏi để biết rõ những ý nghĩa thâm sâu của ngôn ngữ biểu tượng và các chất liệu dùng trong phụng vụ để giúp người khác hiểu và tham dự cách sốt sắng hơn. Theo James Dunning : “Giáo lý đầy dẫy biểu tượng và truyện tích, điều kỳ diệu và việc cầu nguyện, im lặng và huyền nhiệm, tưởng tượng và cảm kích… Phụng vụ là thế đấy”.
• Nền tảng Kinh Thánh. Biểu tượng phụng vụ được tìm thấy trong các câu truyện Kinh Thánh cũng như trong hình ảnh và các biểu tượng tự nhiên. Chẳng hạn, việc đổ nước trong bí tích rửa tội mang biểu tượng tự nhiên của nước là làm sạch, làm tươi mát, làm cho sống và làm tái sinh. Nhưng nước rửa tội nói lên ý nghĩa phong phú hơn rút ra từ những câu truyện Kinh Thánh về nước, chẳng hạn : Câu chuyện sáng tạo, lụt hồng thủy, vượt qua biển đỏ, băng qua sông Jordan tiến về đất hứa…
Việc hiểu biết những câu truyện Kinh Thánh và ý nghĩa của nó rất cần thiết để thấu hiểu những lễ nghi phụng vụ. Giáo lý viên có trách nhiệm hướng dẫn các em về ý nghĩa phong phú của các câu truyện Kinh Thánh
• Nối kết phụng vụ với giáo lý. Bằng mọi nỗ lực, chúng ta nối kết việc dạy giáo lý với tâm tình phụng vụ.
Chính vì mối tương quan mật thiết hai chiều giữa giáo lý và phụng vụ mà các sách giáo lý ngày nay thường trình bày nội dung giáo lý theo diễn tiến của phụng vụ. Một số giáo lý viên xây dựng toàn bộ giáo lý xung quanh các bài đọc trong thánh lễ theo chu kỳ phụng vụ.
Một số giáo lý viên khác áp dụng trong lớp học những yếu tố phụng vụ như :
a. Mùa phụng vụ. Bồi dưỡng kiến thức phụng vụ trong các bài học, không những chỉ đề cập đến mà thôi nhưng còn áp dụng nó. Chẳng hạn trong mùa vọng có màu sắc mùa vọng, nghệ thuật, những câu chuyện Kinh Thánh mùa vọng, những bài hát dân gian, hoặc những tấm hình nói lên sự mong mỏi chờ đợi.
b. Lời nguyện phụng vụ. Áp dụng ngay trong lớp những lời nguyện thích hợp lấy từ thánh lễ hay các giờ kinh phụng vụ. Nhiều lời nguyện rất thích hợp cho giáo lý có thể trở thành đề tài trong buổi học.
c. Thánh vịnh và thánh ca. Chọn những bài hát, những thánh vịnh ngày chúa nhật để tạo cầu nối giữa lớp học và nhà thờ.
d. Biểu tượng và nghi lễ phụng vụ. Một vài cử chỉ điệu bộ, phong cách, và những vật dụng được dùng làm biểu tượng trong phụng vụ có thể làm cho bài học sống động hơn. Việc nối kết các yếu tố phụng vụ và giáo lý không khó lắm một khi ta cảm nhận được giá trị của nó.
3. CÁC NHÂN CHỨNG
Nội dung giáo lý còn bao gồm đời sống gương mẫu của các Thánh, của Giáo Hội và của các chứng nhân kitô hữu. Những giáo huấn của Đức Thánh Cha, của các Công đồng, các Giám Mục, những người có trách nhiệm giảng dạy là những chứng từ sống đức tin và là một phần trong kho tàng Đức tin của Giáo Hội.
Ngày nay, Giáo hội rất quan tâm đến đời sống những kitô hữu gương mẫu. Giáo hội coi đời sống của kitô hữu dấn thân như dấu chỉ của Giáo Hội giữa thế giới và là thành phần sống động của nội dung giáo lý. Các thánh và các bậc anh hùng còn sống cũng như đã qua đời đã cung cấp cho chúng ta những tấm gương thật sự sống động, để giúp ta biết sống thế nào như những người theo Chúa Kitô và như những người đáng được biểu dương. Để hiểu biết về đời sống các thánh, ta nên :
• Theo dõi lịch phụng vụ. Thường Giáo Hội tôn kính một hay nhiều vị thánh vào một ngày nào đó trong năm. Nên có một cuốn lịch phụng vụ để theo dõi và dành ít phút trong ngày để học hỏi về vị thánh được kính nhớ trong ngày.
• Nên đọc thêm những sách đề cập đến các vị anh hùng nam nữ mà đời sống của họ có ý nghĩa đặc biệt khi phải vượt thắng những thách đố đương thời.
• Ta có thể có những sáng kiến về việc phát huy đời sống các Thánh và từng bước đưa đời sống các Thánh ảnh hưởng vào đời sống của ta cũng như của các em học viên giáo lý qua việc cầu nguyện, diễn thơ văn, nghệ thuật, giải đáp thắc mắc, diễn kịch, bản đồ, phim ảnh, vidéo…
• Ta cũng có thể sử dụng những phương tiện thông tin như báo chí hằng ngày, tin tức trên tivi, radio, tạp chí các loại để tìm những mẫu gương về đời sống dấn thân của các Kitô hữu.
• Chúng ta nên quan tâm cả đến những mẫu gương đáng khâm phục của người trong gia đình, thân nhân, hàng xóm, những người trong xã hộiv.v…
4. NHỮNG DẤU CHỈ KHÁC TRONG ĐỜI SỐNG
Lời Chúa có thể đến với chúng ta bằng nhiều cách qua những dấu chỉ của thiên nhiên, của lịch sử. Qua những dấu chỉ này, con người khám phá ra sự hiện diện hoặc ý định của Thiên Chúa[7]. Do đó Giáo Hội không ngừng tìm kiếm và khám phá ý nghĩa của những biến cố bên trong và ngoài Giáo Hội.
Ta có thể nêu lên một số dấu chỉ khác tạo nên nội dung phong phú của giáo lý [8].
4.1. Dấu chỉ thiên nhiên
Những dấu chỉ thiên nhiên của Lời Chúa luôn có chung quanh chúng ta vì Thiên Chúa luôn ở với chúng ta mọi nơi mọi lúc và Chúa Kitô phục sinh làm phong phú mọi sinh hoạt của con người. Chẳng hạn như một bữa ăn gia đình, một sự kỳ diệu của thiên nhiên như : bông hoa, con bướm, giòng suối, trận động đất, một biến cố chính trị, một lời nói hay một cử chỉ thân thiện, một ổ bánh mì hay một ly rượu, một thành quả khoa học như máy vi tính, một bức tranh tuyệt đẹp, một bài hát hay… tất cả đều có thể là những dấu chỉ Thiên Chúa ngỏ lời với con người. Đó là lý do mà sách giáo lý ngày nay nói đến tất cả kinh nghiệm sống của con người.
4.2. Những dấu chỉ của thời đại
Đức Gioan XXIII nhấn mạnh đến nhu cầu phải đọc những “ dấu chỉ thời đại” để nhận thức điều Thiên Chúa nói với chúng ta. Ngài đã dùng ý tưởng “ dấu chỉ thời đại” rút từ trong Tin Mừng Matthêu 16,3 : “… Cảnh sắc bầu trời thì các ông biết cắt nghĩa, còn thời điềm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi.”
Để triển khai ý tưởng của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, Giáo Hội dạy dân Chúa biết nhận thức dấu chỉ xác thực về sự hiện diện và ý định của Thiên Chúa trong các biến cố, những nhu cầu và những khát vọng mà con người cảm nghiệm khắp nơi[9]. Các kinh nghiệm cá nhân, biến cố xã hội, chính trị, vấn nạn muôn thuở, những giá trị nền tảng, các vấn đề thời đại… Đó là tất cả những điều mà sách giáo lý gọi là dấu chỉ thiêng liêng của Lời Chúa. Khi loại bỏ hay lướt qua phần kinh nghiệm của con người trong giáo lý là chúng ta cắt xén truyền thống giáo lý với đời sống hằng ngày.
Vậy chúng ta ứng dụng kinh nghiệm đời sống như thế nào ?
Xét về tầm quan trọng của những kinh nghiệm sống của con người trong giáo lý, chúng ta cần tìm kiếm những đường hướng có hiệu quả để giúp khám phá những gì đang xảy ra trong đời sống con người. Sau đây là những bước mà chúng ta thấy là hữu ích :
Suy tư dựa trên kinh nghiệm riêng
Bước thực hành quan trọng nhất là xác tín của ta vào truyền thống giáo huấn của Giáo Hội. Truyền thống này hướng dẫn chúng ta nhận biết Thiên Chúa đang hiện diện và ngỏ lời với chúng ta trong những kinh nghiệm của đời sống hằng ngày.
Sau đó hãy suy tư xem nơi nào và cách nào giúp ta gặp Chúa tốt nhất, thời gian nào ảnh hưởng nhất đến mối tương giao của ta với Thiên Chúa. Con người, công việc, cơ hội, tai nạn, sức khỏe tốt, xấu đã giúp ta nhận thấy Thiên Chúa đang tác động nơi đời sống của mình như thế nào ?
Suy tư và đặt vấn đề.
Trước mỗi hoàn cảnh, biết đặt vấn đề, biết lắng nghe và biết nhạy cảm bằng con tim cũng như đôi tai, như vậy ta sẽ khám phá được ý nghĩa của từng vấn đề, sẽ cảm thấy năng lực được biến đổi.
c. Vận dụng kinh nghiệm của người khác .
Để đào sâu và mở mang kinh nghiệm riêng cũng như biết suy tư cách sâu xa và nghiêm túc, chúng ta nên chia sẻ cho người khác những kinh nghiệm sống và lắng nghe kinh nghiệm của người khác.
Những câu chuyện, thơ văn, những bức tranh và những hình thức nghệ thuật khác, phim ảnh, vidéo, âm nhạc… tất cả đều là những phương tiện làm phong phú kinh nghiệm bản thân.
Các phương tiện truyền thông hiện đại : Nhật báo, tạp chí… sẽ cung cấp cho ta những thông tin, những câu chuyện, những chủ đề, những hình ảnh, quảng cáo…. Chúng không chỉ mở mang vốn hiểu biết về những biến cố xảy ra trên thế giới, nhưng còn giúp đào sâu những kinh nghiệm chung của con người.
[1] NGUYỄN VĂN TUYÊN, Sư phạm giáo lý , NXB TP Hồ Chí Minh, năm 1999 [2] Hiến chế Mạc Khải số 10 [3]Chỉ Nam tổng quát việc dạy Giáo lý 1997, số 95 [4]Giáo lý Thánh Cyrilô thành Giêrusalem 5,12 [5]AMBRÔSIO, Kinh Tin kính 1 [6] Xem Giáo lý công giáo số 192 [7] Hiến chế Mục Vụ số 11 [8] Carl J. PFEIFER, Để dạy giáo lý hữu hiệu hơn (How to be a better catechist), Bản dịch của nhóm ABC, trang 12 [9] Tiếng nói của Thánh Linh mà Đức Giêsu, qua Chúa Cha, đã truyền đạt cho các môn đệ, cũng phải được lắng nghe qua các biến cố lịch sử. Giữa những đổi thay của tình hình hiện tại và giữa những động lực sâu sa của mọi thách đố đang đặt ra cho việc loan báo Tin Mừng, ta phải khám phá “các dấu chỉ đích thực về sự hiện diện hoặc về ý định của Thiên chúa”. Sự phân tích này phải được thực hiện dưới ánh sáng đức tin với lòng trắc ẩn và khoan dung. Sự giúp đỡ của các khoa học nhân văn luôn luôn cần thiết giúp Giáo Hội tìm cách khám phá ý nghĩa của tình trạng hiện tại trong lòng lịch sử ơn cứu độ. Những phán đoán của Giáo Hội về thực tại luôn là những chẩn đoán dành cho việc truyền giáo. (Trích trong Chỉ Nam việc dạy giáo lý số 27).
BÀI 11 Chương II : MỘT SỐ CHỈ DẪN CỦA GIÁO HỘI VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ
Việc dạy giáo lý luôn được Giáo Hội coi là một bổn phận rất quan trọng vì đây chính là mệnh lệnh của Đức Kitô trước khi về trời (xem Mt 28,19-20). Giáo Hội, trải qua bao thời đại và dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần, đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu những cách thức truyền đạt Lời Chúa một cách có hiệu quả. Để theo sát đường hướng của Giáo Hội, giáo lý viên cần học hiểu và áp dụng những chỉ dẫn của Giáo Hội liên quan đến việc dạy giáo lý. Những chỉ dẫn này được tìm thấy trong các tài liệu giáo huấn của Giáo Hội.
Chúng ta sơ lược một vài tài liệu quan trọng hơn, trực tiếp nói đến việc dạy giáo lý đó là : Tông huấn Loan báo Tin Mừng của ĐTC Phaolô VI, Tông huấn Dạy Giáo Lý của ĐTC Gioan Phaolô II và cuốn Chỉ Nam tổng quát về việc dạy Giáo lý năm 1997.
I. TÔNG HUẤN LOAN BÁO TIN MỪNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI
1. Ý NGHĨA VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG
Công đồng Vaticanô II định nghĩa : “Giáo Hội tự bản tính là truyền giáo”[1]. Giáo Hội có nhiều sứ mạng, nhưng sứ mạng quan trọng, thuộc yếu tính của Giáo Hội, đó là truyền giáo hay còn gọi loan báo Tin mừng. Sứ mạng này bắt nguồn từ lệnh truyền của Đức Kitô : “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ các điều Thầy đã truyền dạy cho anh em”[2].
Việc loan báo Tin mừng này luôn được Giáo Hội coi là một nhiệm vụ ưu tiên[3], một bổn phận thiêng liêng[4], một mối bận tâm hàng đầu[5]. Trải qua bao thế hệ, do sự thách thức của xã hội và của các nền văn hóa khác nhau, Giáo Hội tự biết mình có sứ mệnh phải loan báo Tin Mừng bằng nhiều cách khác nhau. Do đó các kiểu mẫu huấn giáo ra đời và thay đổi tùy theo giòng thời gian để Tin Mừng Đức Kitô đã gieo vào trần gian được nẩy sinh và phát triển cách thích hợp trong lòng con người.
Đặc biệt Đức Thánh Cha Phaolô VI, trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng, đã thúc bách toàn thể giáo Hội phải ý thức và dồn hết mọi nỗ lực của mình vào việc loan báo Tin mừng. Vậy, loan báo Tin Mừng là gì ?
Loan báo Tin mừng là một công việc khá phức tạp, không chỉ giới hạn trong việc giảng dạy về tôn giáo. Thật ra không một định nghĩa phiến diện nào có thể lột hết được thực tại phong phú, phức tạp và sống động như việc loan báo Tin mừng. Nếu coi việc loan báo Tin mừng chỉ là giảng dạy và rửa tội, là ta đã làm cho việc đó trở nên nghèo nàn và không thấy được bao quát tất cả những yếu tố chính yếu của nó. Trong chương II của Tông huấn Loan báo Tin mừng, ĐTC Phaolô VI nêu lên 7 yếu tố của việc loan báo Tin mừng như sau :
1.1. Là làm đổi mới bộ mặt nhân loại, là thay đổi tự bên trong, nghĩa là :
• “Giáo Hội tìm cách hoán cải lương tâm cá nhân và tập thể của con người”[6].
• “Hoán cải mọi sinh hoạt mà con người đang dấn thân”[7].
• “Hoán cải đời sống và hoàn cảnh cụ thể của họ”[8].
• “Dùng sức mạnh Tin mừng làm đảo lộn những tiêu chuẩn phán đoán, những giá trị dẫn đạo, những bận tâm chính yếu, những trào lưu tư tưởng, những nguồn cảm hứng, những mẫu mực sống của nhân loại khi những điều ấy ngược với Lời Chúa và chương trình cứu độ[9].
• Phúc Am hóa các nền văn hóa : văn minh, kiến thức và tất cả những gì liên quan tới cuộc sống con người. “ Phúc Am hóa các nền văn hóa phải được thực hiện cách sống động sâu xa tới tận gốc rễ, chứ không theo một cách trang trí như lớp sơn bóng ngoài mặt”[10]
1.2. Làm chứng tá bằng sự hiện diện, bằng thái độ sống, bằng gương sáng… “Tin Mừng trước tiên phải công bố bằng cách làm chứng. Cứ xem một kitô hữu hay một tập thể kitô hữu đang sống giữa cộng đồng con người, khi họ tỏ ra khả năng thông cảm và đón nhận, thái độ chia sẻ và vận mệnh với người khác, tình liên đới trong các nỗ lực chung nhằm tất cả những gì cao thượng và tốt lành. Một cách thật đơn giản và hồn nhiên, lòng họ tin nơi những giá trị vượt xa những giá trị thông thường, và trông cậy vào những gì người ta không thấy… Một chứng tá như vậy đã là sự công bố Tin Mừng tuy thầm lặng nhưng rất mãnh liệt và hiệu quả… Một đời sống làm chứng bao hàm sự hiện diện, chia sẻ, liên đới là một yếu tố chính yếu của việc loan báo Tin Mừng”[11].
1.2. Loan báo công khai Đức Giêsu Kitô bằng cách :
“ Chứng tá cho dù đẹp đẽ nhất cũng trở nên vô hiệu theo thời gian, nếu nó không được soi sáng, biện minh và nếu nó không được diễn đạt bằng một sự loan báo rõ ràng, không mập mờ về Đức Kitô. Vậy Tin Mừng đã được công bố bằng đời sống làm chứng, sớm muộn phải được công bố bằng Lời ban sự sống. Không có loan báo Tin Mừng thực sự nếu danh tánh, lời giảng dạy, đời sống, lời hứa, Triều đại, mầu nhiệm của Đức Giêsu Con Thiên Chúa không được loan báo”[12].
Vậy làm thế nào để các mầu nhiệm Chúa Kitô được vang lên và tới tai mọi người ?
Mục vụ rao giảng Lời Chúa gồm có :
– Tiền Phúc Âm hóa (Pré-Evangélisation) : giai đoạn khơi gợi niềm tin trong lòng con người.
– Loan báo Tin Mừng : Truyền giảng Tin mừng cho người chưa tin Đức Kitô (Kérygme, Evangélisation)
– Dạy giáo lý : Giúp người ta khám phá và đón nhận đức tin Kitô giáo (catéchumène) và giúp các tín hữu đào sâu và sống trưởng thành trong đức tin (Catéchèse)
– Diễn giảng Lời Chúa (Homélie)
– Giảng dạy Thần học (Didascalie, Théologie) : Dạy giáo lý ở mức đại học, vừa sử dụng Kinh Thánh, vừa dùng lý luận để trình bày Lời Chúa.
1.4. Gắn bó với chân lý, với cuộc sống, với nước trời. “Lời loan báo chỉ đạt tới hết kích thước của nó khi được gắn bó với những chân lý. Nhưng hơn nữa, gắn bó với một cuộc sống đã được biến đổi. Nghĩa là gắn bó với thế giới mới, với một tình trạng mới, một sự hiện hữu mới, một cách sống mới và một cách chung sống mới mà Tin mừng đã khai mở. Gắn bó như thế thì không còn gì là trừu tượng nhưng được tỏ ra một cách cụ thể.”[13]
1.5. Gia nhập cộng đoàn tín hữu một cách cụ thể, thấy được. “Những ai đã được biến đổi đời sống thì cần phải gia nhập một cộng đồng tín hữu”[14].
1.6. Đón nhận những dấu chỉ của đời sống mới :
Gia nhập vào một cộng đoàn, cộng đoàn này là một dấu chỉ biến đổi, một dấu chỉ của đời sống mới. Đó chính là Giáo Hội, bí tích hữu hình của ơn cứu độ… ”[15]
1.7. Trở thành những sứ giả Tin mừng : người đã được nghe rao giảng, tới lượt họ phải đi rao giảng lại. “Đó là sự trắc nghiệm của chân lý, là đá thử vàng của việc loan báo Tin Mừng. Không thể tưởng tượng được một con người đã tiếp nhận Lời và đã hiến thân cho Nước Trời mà lại không trở nên một người làm chứng và loan báo Tin Mừng”[16].
2. NHIỆM VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG.
Với các định nghĩa trên, ta thấy Tông Huấn đã nêu lên những điểm then chốt trong việc loan báo Tin mừng, một nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu. Các hình thức khác nhau của việc truyền giảng Tin Mừng luôn cần thiết mọi nơi và mọi lúc để khơi dậy, củng cố và nuôi dưỡng niềm tin. Do đó mà Thánh Phaolô đã khẳng định : “Làm sao người ta có thể tin nếu không được nghe Tin mừng, làm sao có thể nghe Tin mừng nếu không có người đi rao giảng… Vậy tin là do nghe truyền giảng, mà nghe giảng là do công bố Lời Đức Kitô”[17].
Trong số 66 của Tông huấn, Đức Thánh Cha khẳng định : “Toàn thể Giáo Hội được mời gọi làm công việc loan báo Tin Mừng và mỗi người phải chu toàn những nhiệm vụ loan báo Tin Mừng khác nhau tùy khả năng và theo hoàn cảnh. Tuy khác nhau nhưng cùng một sứ mệnh duy nhất là làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng được giầu đẹp.”
Như vậy bất cứ một thành phần nào trong Giáo Hội : Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân đều là những người phục vụ Tin Mừng. Đặc biệt đối với các tu sĩ, ĐTC viết :
“Các tu sĩ tìm được trong đời sống tận hiến một phương thế tốt đẹp đặc biệt để loan báo Tin Mừng có hiệu quả. Đó là bằng chính con người của mình và bằng sự khao khát sống thánh thiện. Họ làm chứng cho sự thánh thiện ấy… Bằng nếp sống, họ là những dấu chỉ của việc sẵn sàng phục vụ Chúa, Giáo Hội và tha nhân… Có tu sĩ loan báo Tin mừng bằng thinh lặng, sám hối, hy sinh… Có người từ bỏ hết mà đi loan báo Tin Mừng đến mút cùng trái đất”[18].
Còn đối với giáo dân, Đức Thánh Cha viết :
“Phạm vi dành riêng cho hoạt động loan báo Tin Mừng của họ là thế giới rộng lớn và phức tạp của những sinh hoạt chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, khoa học, nghệ thuật… và một số những thực tại khác như tình yêu, gia đình, nghề nghiệp, đau khổ…”[19]
Như vậy, mỗi kitô hữu, trong cách thế của mình có thể truyền giảng Tin mừng bằng nhiều đường lối tùy theo đối tượng chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc.
3. GIÁO LÝ VIÊN VÀ SỨ MỆNH LOAN BÁO TIN MỪNG
Giáo lý viên là người loan báo Tin mừng qua ngả huấn giáo, nghĩa là tập trung vào việc giảng dạy giáo lý. Vì dạy giáo lý là một phần trong việc loan báo Tin Mừng nên nội dung của giáo lý không có gì khác với việc loan báo Tin Mừng, có khác là do đối tượng và cách thức truyền đạt mà thôi.
Những tài liệu của công đồng Vatican II vào đầu thập niên 1960 đã đề ra mục tiêu cơ bản cho vai trò của giáo lý viên. Đó là :
“ Giáo lý viên được mời gọi để giúp cho những người khác sống trưởng thành đức tin. Những người khác ở đây có thể là các em thiếu nhi, thanh niên, giới trưởng thành- từ cá nhân đến cộng đoàn.
Đức tin ở đây phải hiểu là tiếng đáp trả trọn vẹn của con người đối với Thiên Chúa và Lời của Ngài bằng cả trí khôn và tình cảm, cả linh hồn và thân xác. Vì đức tin bao gồm toàn thể nhân cách con người, được biểu lộ trong hành động và lối sống nên chúng ta có thể xác định phận vụ của người giáo lý viên là: “ được mời gọi để giúp người khác sống tốt đời sống kitô hữu”
Để thực hiện sứ mệnh này, Chương VII của Tông huấn mời gọi giáo lý viên phải sống xứng đáng với ơn gọi “Sứ giả Tin Mừng”, nghĩa là phải có những thái độ nội tâm cần thiết như sau :
1. Làm việc dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần
“Sẽ không bao giờ có thể loan báo Tin Mừng nếu không có tác động của Chúa Thánh Thần… Có những kỹ thuật loan báo Tin Mừng là điều tốt, nhưng những kỹ thuật này dù hoàn hảo nhất cũng không làm sao thay thế được tác động của Thánh Thần. Không có Ngài thì sứ giả Tin Mừng có sửa soạn hết sức tinh tế cũng chẳng làm được gì.”[20]
2. Là những chứng nhân đích thực.
“Thế giới này khao khát sự đích thực. Nhất là giới trẻ, họ chán ghét những gì là giả tạo… Thiên hạ luôn vặn hỏi chúng ta : Các người có thực sự tin điều các người loan báo không ? Các người có truyền giảng thực sự điều các người sống không ? Hơn bao giờ hết, làm chứng bằng đời sống đã trở thành một điều kiện thiết yếu để việc giảng dạy có hiệu quả sâu sa.”
“Nhiệt tình loan báo Tin Mừng phải vọt lên từ một đời sống thực sự thánh thiện được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện và nhất là bằng lòng yêu mến Thánh Thể… Thế giới chờ đợi nơi chúng ta một đời sống giản dị, tinh thần cầu nguyện, lòng yêu thương đối với mọi người, nhất là những ai bé mọn và nghèo khổ, đức vâng phục và khiêm tốn, sự từ bỏ chính mình. Không có những dấu hiệu và sự thánh thiện như thế, lời chúng ta sẽ khó đi vào lòng dạ con người thời nay được. Nó có thể thành vô ích và vô hiệu.”[21]
3. Là những người xây dựng hiệp nhất
“Là những sứ giả Tin Mừng, chúng ta phải cống hiến cho các tín hữu của Đức Kitô, không phải hình ảnh của những con người chia lìa nhau vì những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là hình ảnh những con người chín chắn trong đức tin, khó khả năng gặp gỡ nhau bên trên những căng thẳng thực tế nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý một cách chân thành và vô vị lợi. Số phận công cuộc loan báo Tin Mừng chắc chắn được gắn liền với việc sống và làm chứng cho sự hiệp nhất.”[22]
4. Là những người phục vụ chân lý
“Tin Mừng mà chúng ta loan báo là lời chân lý, một chân lý đem lại tự do (Yn 8,32)… Thiên Chúa của chân lý mong đợi chúng ta tỉnh thức bảo vệ và tận tụy rao truyền chân lý… Nhiệm vụ của chúng ta là giúp đỡ người khác khám phá chân lý, kể cả chân lý tôn giáo và thiêng liêng”[23].
5. Có động lực là lòng yêu thương.
“Sứ gỉa Tin Mừng phải có lòng thương yêu anh em ngày càng lớn mãi… Còn hơn một nhà giáo dục, đó là tình thương của một người cha, một người mẹ… Một dấu chỉ của tình thương yêu là biết cho người khác chân lý và đưa vào sự hiệp nhất. Một dấu chỉ nữa là biết hy sinh trọn vẹn và dứt khoát cho việc loan báo Tin Mừng.”[24]
6. Làm việc với sự nhiệt tình
“Việc loan báo Tin Mừng trong thời đại chúng ta gặp nhiều trở ngại, một trong những trở ngại lớn là sự thiếu nhiệt tình. Nó càng trầm trọng bởi lẽ nó phát xuất từ bên trong, nó biểu lộ trong sự mệt mỏi và chán nản, sự làm lấy lệ và hờ hững, và nhất là sự thiếu niềm vui và hy vọng. Vì vậy chúng tôi khuyên những ai có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng ở bất cứ cấp bậc nào, hãy nuôi dưỡng nhiệt tình cho tâm hồn mình.”[25]
Tóm lại, trách nhiệm cơ bản nhất của giáo lý viên là giúp người khác nhận biết, say mến Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người. Tuy nhiên, một trong những thách đố lớn nhất của người chứng nhân là làm sao tìm được thái độ sống đúng trong thế giới phức tạp, đầy kích động và đa diện. Nhưng đức tin và truyền thống công giáo được hình thành qua 40 thế kỷ Do thái và Kitô giáo cho chúng ta một kinh nghiệm là một lối sống rập theo gương Đức Kitô là lối sống bảo đảm nhất tính hiệu nghiệm của công cuộc loan báo Tin Mừng.
II. TÔNG HUẤN DẠY GIÁO LÝ CỦA ĐTC GIOAN PHAOLÔ II
Tông huấn Dạy giáo lý được ĐTC Gioan Phaolô ban hành ngày 16 tháng 10 năm 1979. Tông huấn này là kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ IV họp từ 30-9 đến 29-10-1977. Các Giám Mục đã tích cực thảo luận về đề tài : “Huấn giáo đặc biệt trong giới thiếu nhi và thanh niên” do ĐTC Phaolô VI nêu ra. Những đề nghị của các Giám Mục được khai thác rộng ra thành tài liệu chính thức về Huấn giáo, mang tên Catechesi Tradendae (Dạy giáo lý).
1. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH
Trước khi tóm lược nội dung Tông Huấn, chúng ta nêu lên một vài nhận định của các quan sát viên về tình hình việc giáo lý qua những bàn bạc của các Giám Mục thế giới :
– Rất nhiều ý kiến nêu lên sự đối lập giữa hai phương pháp dạy giáo lý. Phương pháp hỏi thưa (cổ điển) do một người truyền đạt nhằm học hỏi những kiến thức tôn giáo và phương pháp quy nạp (tân tiến) chủ trương phân biệt và làm rõ những điểm chính, điểm phụ trong khi trình bày sứ điệp Kitô giáo.
– Cần nỗ lực để áp dụng một nền Huấn giáo nhắm đúng mục đích là nuôi dưỡng đời sống đức tin và giúp gặp gỡ được chính Đức Kitô vào đời sống hơn là nhồi nhét những lý thuyết, những biểu tượng lỗi thời.
– Cần làm nổi bật vai trò Đức Kitô, Ngài không phải là một tư tưởng, một ý thức hệ nhưng là một con người lịch sử. Môn huấn giáo sẽ mất ý nghĩa nếu không có Đức Kitô làm trung tâm.
– Nhiệm vụ của Giáo Hội là luôn trở về với Tin mừng Chúa Kitô để tìm ra cái “hồn sống” của con người trong mọi thời đại và qua mọi nền văn minh, chứ không nghiêng về cấp tiến hay bảo thủ, phe này hay phe kia.
– Giáo lý viên không phải là người nhắc bảo nhưng trước hết phải là một người làm chứng về Đức Kitô. Nếu Huấn Giáo có mục đích giúp người thụ huấn xác định một sự chọn lựa, thì đó chính là chọn lựa gắn bó với Chúa Kitô, Đấng cho họ sống và định cho cuộc sống của họ quy hướng về Ngài.
– Người trẻ ngày nay bị ảnh hưởng bởi một văn hóa vô thần, đụng chạm tới đủ thứ nghi ngờ. Họ cần những chứng từ sống đức tin của người lớn, của giáo lý viên. Vì thế nên dựa vào văn hóa của mỗi dân tộc để trình bày những chân lý đức tin cho sống động và dễ hiểu.
– Cần dựa vào bối cảnh sống và đời sống cụ thể của con người để trình bày đức tin.
2. NỘI DUNG TÔNG HUẤN
Nét chủ đạo của Tông Huấn Dạy giáo lý là mệnh lệnh của Đức Kitô truyền cho các tông đồ : “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ các điều Thầy đã truyền dạy cho anh em”[26]. Điều này các tông đồ đã thực hiện và Giáo Hội vẫn tiếp tục thi hành qua mọi thời đại. Ta có thể nói Tông huấn này là gia sản chung của Giáo Hội, được làm nên bằng những hiểu biết, những kinh nghiệm từ bao đời trong việc nuôi dưỡng đời sống đức tin của Dân Chúa.
Ngoài phần nhập đề và phần kết, Tông huấn chia làm 9 chương :
PHẦN NHẬP ĐỀ :
Tông huấn nhấn mạnh đến sứ vụ quan trọng của Giáo Hội là truyền giảng Tin Mừng mà khởi điểm là mệnh lệnh của Đức Kitô cho các tông đồ, đồng thời nói lên sự quan tâm của các Đức Thánh Cha qua các tài liệu hướng dẫn việc dạy giáo lý. Tiếp đến Tông huấn nhắc đến những hoa trái mà Thượng Hội đồng đã gặt hái dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần và sau cùng là niềm mong ước của Đức Thánh Cha cho toàn thể kitô hữu được củng cố đức tin và có sáng kiến gieo rắc niềm vui ơn cứu độ cho thế giới.
CHƯƠNG I : CHÚNG TA CHỈ CÓ MỘT THẦY LÀ ĐỨC KITÔ
Thượng Hội đồng nhấn mạnh tính “quy Kitô” của khoa Huấn giáo. Đối tượng của Đức tin không phải là một bản văn, một giáo thuyết, nhưng là một ngôi vị : Đức Giêsu Kitô, Đấng là đường, là sự thật và là sự sống[27], và mục đích của Huấn giáo là làm cho mọi người hiểu biết và thông hiệp mật thiết với Đức Kitô.
Giáo lý không phải là những ý niệm trừu tượng, nhưng là việc thông truyền những chân lý sống động của Thiên Chúa. Với tư cách là Thầy, Đức Kitô là một GLV mẫu mực, Ngài để lại cho chúng ta một tấm gương tuyệt hảo về cách thức loan báo Tin mừng qua lời nói, cử chỉ và thái độ đối với mọi người.
Do đó, giáo lý viên không thể truyền đạt những lời nói suông nhưng là người vừa rao giảng, vừa làm chứng bằng cả đời sống theo mẫu gương Đức Kitô.
CHƯƠNG II : MỘT KINH NGHIỆM CỔ XƯA NHƯ GIÁO HỘI
Tông huấn nhắc đến lịch sử việc dạy giáo lý của Giáo Hội từ Đức Kitô đến các tông đồ, và cho đến ngày nay. Điều này cho thấy tính liên tục cũng như nguồn gốc căn bản của việc dạy giáo lý đã được chính Đức Kitô khởi sự và thi hành một cách tuyệt hảo qua lời nói, cử chỉ và lối sống của Ngài.
Tông huấn nhấn mạnh việc dạy giáo lý vừa là một quyền lợi vừa là một bổn phận ưu tiên của Giáo Hội cũng như của mỗi kitô hữu. Hơn nữa giáo lý cần phải được canh tân liên tục để một mặt luôn khám phá ra tính mới mẻ của giáo lý và mặt khác luôn trung thành với Tin Mừng.
CHƯƠNG III : VIỆC DẠY GIÁO LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ VÀ TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI
Việc dạy giáo lý nằm trong hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo Hội. Đây là một cách loan báo Tin mừng mà mỗi thành viên trong Giáo Hội đều phải học hỏi và thi hành. Việc dạy giáo lý không những cần thiết để củng cố và trưởng thành trong đức tin mà còn để làm chứng nhân cho Tin Mừng Chúa Kitô qua việc tuyên xưng niềm tin, qua những kinh nghiệm sống và qua tình liên đới hiệp thông trong một thân thể duy nhất là Giáo Hội mà Đức Kitô là Đầu.
CHƯƠNG IV : TOÀN THỂ TIN MỪNG NGAY TẠI NGUỒN MẠCH
Nguồn suối của giáo lý là Thánh Kinh và Thánh Truyền. Lời Chúa chính là sứ điệp Tin Mừng cứu độ phải được thấm nhuần cách sâu xa trong mọi khía cạnh của giáo lý ; và Kinh Tin Kính do các tông đồ truyền lại, cũng bắt nguồn từ Kinh Thánh phải nhằm tuyên xưng đức tin và củng cố niềm tin vào Mầu nhiệm Chúa Kitô. Mầu nhiệm này cao cả và phong phú mà Giáo Hội qua mọi thời đại luôn dựa và Thánh Kinh mà khai triển cho thêm trong sáng và vững chắc.
Vì Mầu nhiệm Chúa Kitô là một Mầu nhiệm rất đa dạng, nên khoa Huấn giáo luôn tìm kiếm những phương pháp thích hợp cho mỗi trình độ, mỗi lứa tuổi để trình bày cách sống động và tốt nhất Con người Đức Kitô và Tin Mừng của Người.
CHƯƠNG V : MỌI NGƯỜI CẦN ĐƯỢC HẤP THỤ GIÁO LÝ
Tông huấn nhắc đến từng lứa tuổi, từ trẻ đến già : tất cả cần được hấp thụ giáo lý. Bởi vì giáo lý giúp hoàn thiện mọi sinh hoạt của con người và xã hội.
Trong đoạn cuối, Tông huấn nhắc : “Giáo Hội phải làm sao để không ai cảm thấy mình được miễn học giáo lý, và nhất là những người đang chuẩn bị đảm nhận việc dạy giáo lý…” Những người này cần phải học nhiều hơn cả để có đủ khả năng và bản lãnh chu toàn nhiệm vụ đón nhận từ Giáo Hội.
CHƯƠNG VI : ĐƯỜNG LỐI VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY GIÁO LÝ
Trong một thời đại ngày càng phát triển, môn giáo lý cũng phải vận dụng hết mọi điều kiện hiện tại để có thể đáp ứng cách đầy đủ và nhanh chóng nhu cầu của con người. Các phương tiện truyền thông là những dụng cụ thích hợp và hữu ích cho việc giảng dạy giáo lý.
Tuy nhiên, khi sử dụng những phương tiện sẵn có, giáo lý phải luôn giữ được những yếu tố căn bản của đức tin. Vì thế sách giáo lý phải có những tiêu chuẩn sau :
– Sách giáo lý phải theo sát đời sống cụ thể của lớp tuổi mà sách nhắm tới, biết rõ các nhu cầu, các vấn đề của họ.
– Ngôn ngữ diễn tả phải phù hợp với lứa tuổi và trí hiểu của họ.
– Sách giáo lý trình bày đầy đủ và chính xác sứ điệp của Chúa Kitô và của Giáo Hội Người. Không được bỏ sót hay làm méo mó một khía cạnh nào.
– Sách giáo lý phải giúp cho người học một sự hiểu biết ngày càng sâu rộng về Đức Kitô và giúp họ cải hóa thực sự và có quyết tâm thay đổi đời sống cho phù hợp với Tin Mừng.
CHƯƠNG VII : DẠY GIÁO LÝ CÁCH NÀO
Qua mọi thời đại, nội dung giáo lý vẫn không thay đổi : đó là Mầu nhiệm Chúa Kito. Tuy nhiên, cách thế trình bày Đức Kitô phải tùy theo văn hóa, hoàn cảnh sống, trình độ hiểu biết mà dùng những phương pháp khác nhau để việc dạy giáo lý mang lại ích lợi thực sự là làm cho con người khắc cốt ghi tâm Lời của Chúa và lớn lên trong tình hiệp thông với Ngài.
Do đó, việc dạy giáo lý là một cuộc canh tân tinh thần liên tục và lâu dài, giúp con người đạt đến hạnh phúc toàn diện bằng cách trung thành với Thiên Chúa và với con người trong tình yêu.
CHƯƠNG VIII : NIỀM VUI CỦA ĐỨC TIN TRONG MỘT THẾ GIỚI KHÓ KHĂN
Thế giới mỗi ngày mỗi có thêm những khó khăn, những lo âu, dẫn đến một sự lãnh đạm và coi thường những giá trị tinh thần. Những xu hướng trần tục đang dần làm mất ý nghĩa của tôn giáo, của Phúc Âm. Chính trong thế giới ấy mà giáo lý phải cố đóng trọn vai trò của mình là huấn luyện con người trở thành muối và ánh sáng giữa trần gian. Khoa Giáo lý phải tìm kiếm những ngôn ngữ thích hợp với người nghe mà không bóp méo nội dung.
Nhờ sự quan sát, nhận định chính xác về tâm trạng cũng như những khó khăn của con người thời đại mà khoa giáo lý có thể trả lời và giúp con người tìm thấy chân lý thực sự.
CHƯƠNG IX : NHIỆM VỤ ẤY LIÊN HỆ ĐẾN TẤT CẢ CHÚNG TA
Đức Thánh Cha khuyến khích tất cả mọi người có trách nhiệm, từ Giám Mục đến giáo dân, nghĩa là tất cả mọi kitô hữu và mọi tổ chức, từ gia đình đến các phong trào lớn nhỏ trong Giáo Hội đều phải hợp tác trong việc dạy giáo lý.
Một điều khá mới mẻ của Tông huấn là chỗ đứng của giáo dân trong việc giảng dạy giáo lý. Ngài kêu gọi họ đóng góp tích cực vào các sinh hoạt của Giáo Hội.
Đức Thánh Cha kêu gọi mọi người : tùy theo vai trò và trách nhiệm, mỗi người hãy đáp ứng nhu cầu giáo lý cho mọi người chung quanh theo mức độ mình có thể.
PHẦN KẾT :
Tông huấn lược tóm vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội : Ngài là người Thầy nội tâm, luôn hướng dẫn, dạy dỗ và biến đổi các kitô hữu trở thành những chứng nhân đích thực của Đức Kitô qua mọi thời, bắt đầu từ con người nội tâm đến khung cảnh gia đình, làng mạc, dân tộc và cả thế giới.
Đức Maria vừa là người dạy dỗ vừa là môn đệ đầu tiên của Đức Kitô. Mẹ vừa là một giáo lý viên sống động vừa là Mẹ và gương mẫu của các giáo lý viên, Mẹ sẽ giúp ta hiến thân trên con đường mến Chúa yêu người.
Tông huấn kết thúc bằng lời cầu xin Chúa Thánh Thần, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, ban cho Giáo Hội lòng hăng say trong việc dạy giáo lý là sứ mệnh cốt yếu của Giáo Hội.
III. CUỐN HƯỚNG DẪN TỔNG QUÁT VỀ VIỆC GIÁO LÝ NĂM 1997
1. Lý do xuất hiện cuốn Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý
Kể từ thế kỷ XIX, phong trào Huấn giáo được phát triển liên tục và lan rộng khắp nơi. Các tư tưởng, đường lối canh tân được truyền bá qua các tạp chí quốc tế và quốc gia. Người ta đặc biệt lưu ý đến 3 khía cạnh canh tân lần lượt theo 3 giai đoạn sau :
• Giai đoạn canh tân phương pháp : Vào các thập niên 30-40, người ta nhấn mạnh đến việc đổi mới cách dạy giáo lý. Thời kỳ này, người ta đã khám phá ra nhiều quy luật tâm lý và phương pháp sư phạm. Giáo Hội cũng cập nhật những phương pháp này vào khoa Huấn giáo.
• Giai đoạn canh tân nội dung : Vào các thập niên 40-50, người ta nhấn mạnh sự quan trọng của nội dung giáo lý hơn là phương pháp. Nội dung giáo lý là một Tin Mừng mang lại hạnh phúc chứ không phải là những lý thuyết trừu tượng.
• Giai đoạn canh tân chủ đích : Theo đường hướng huấn giáo của Công đồng Vaticanô II, người ta xác định lại chủ đích của giáo lý là đón nhận, sống Lời Chúa và yêu mến Ngài.
Với 3 phong trào canh tân trên, khoa Huấn giáo đã đổi mới nhiều khuôn mặt của các giáo hội địa phương. Và để hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo Hội hoàn vũ, tất cả những góp ý về việc canh tân giáo lý của các Giáo Hội địa phương được đưa về Rôma và được chuẩn nhận chính thức trong cuốn “Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý năm 1971”. Nhưng ngay sau đó ít năm, một số vấn đề mới xuất hiện ngoài xã hội và cả bên trong Giáo Hội dẫn đến việc bó buộc phải có những suy nghĩ mới. Đó là nội dung của Thượng hội đồng Giám mục năm 1977, được nối tiếp bằng Tông huấn của Đức Gioan Phaolô, Catechesi tradendae (1979).
Sau đó, các Đại hội nghị bình thường và ngoại thường của Thượng Hội Đồng giám mục đã có những vang dội riêng về vấn đề giáo lý. Cho đến 1985, Hôi nghị Thượng đỉnh bất thường đã đánh dấu một cách dứt khoát cả hiện tại lẫn tương lai của giáo lý. Một bản tổng kết 20 năm áp dụng Công Đồng Vaticanô II đã được trình bày vào dịp này và các nghị phụ của Thượng Hội Đồng đã trình lên Đức Thánh Cha bản soạn thảo một cuốn giáo lý phổ quát cho Giáo Hội công giáo. Đức Gioan Phaolô II không những rất ưng thuận mà còn cổ võ khuyến khích, và cuốn “Giáo lý của Giáo Hội công giáo” đã được hoàn tất 1992.
Biến cố này đòi buộc phải có một sự duyệt lại cuốn “ Kim chỉ nam tổng quát về giáo lý” để thích nghi thứ dụng cụ thần học và mục vụ qúi báu này vào các nhu cầu mới. Vì thế công việc duyệt lại cuốn “ Chỉ Nam tổng quát về Giáo lý » đã bắt đầu và chú ý đến hai đòi hỏi lớn sau đây :
– Một đàng đưa giáo lý vào việc phúc âm hóa theo đòi hỏi của các Tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi) và Dạy Giáo lý (Catechesi Tradendae).
– Đàng khác, để ý tới các nội dung của đức tin theo cuốn Giáo lý của Giáo Hội công giáo đề nghị.
2. Sơ lược nội dung cuốn Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý 1997
Cuốn Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý 1997 vẫn giữ lại những cơ cấu nền tảng của bản văn 1971, được chia thành dàn bài như sau :
PHẦN MỞ ĐẦU : LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
Phần mở đầu đưa ra các chỉ dẫn giúp chú giải và hiểu biết các trạng huấn con người và tình hình Giáo Hội theo ánh sáng đức tin và trông cậy ở sức linh hoạt của hạt giống Phúc âm. Đây là những chẩn đoán vắn tắt cho sứ vụ.
Phần này được mở đầu bằng dụ ngôn người gieo giống. Hạt giống là Lời Chúa, người gieo giống là Đức Kitô và những người tiếp nối công việc của Người, ruộng lúa là thế gian với những khác biệt về lịch sử, tôn giáo, văn hóa và xã hội. Vai trò của Giáo Hội trong thế giới không những làm men trong thúng bột mà cũng còn phải luôn đổi mới đời sống Giáo hội ngay từ bên trong. Và để cho hạt giống Tin mừng trổ sinh tươi tốt, cần phải biết đọc những dấu chỉ thời đại cũng như biết nắm bắt được những thách đố trong việc dạy giáo lý.
Phần mở đầu này nhằm khuyến khích các vị chủ chăn và những ai dạy giáo lý phải ý thức sự cần thiết của việc luôn sẵn sàng quan tâm đến mảnh đất được gieo giống, và thực hiện việc gieo giống với cái nhìn của đức tin và của lòng nhân ái.
PHẦN I : GIÁO LÝ TRONG SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG CỦA GIÁO HỘI
Phần này gồm ba chương và thả neo sâu hơn cho nền Huấn giáo theo Hiến chế Công đồng Dei Verbum (Mạc Khải). Đặt giáo lý vào khung cảnh Phúc-âm-hóa mà các Tông huấn Evangeli Nuntiandi (Loan báo tin mừng) và Catechesi Tradendae (Dạy giáo lý) đã trình bày. Phần này cũng nêu rõ bản chất của giáo lý.
Chương I : Mạc khải và sự chuyển đạt mạc khải trong việc loan báo Tin Mừng.
Chương này dựa trên nền tảng thần học để nhắc lại cách vắn gọn khái niệm về mạc khải theo Hiến chế Tín lý về Mạc Khải (Dei Verbum)[28]. Công Đồng rất quan tâm đến mạc khải vì mạc khải là nền tảng của Thần học. Đức Kitô chính là trung gian và là sự viên mãn của toàn thể mạc khải. Ngài đến bổ túc và hoàn tất mạc khải bằng sự hiện diện và bằng việc tỏ mình ra qua lời nói, việc làm, dấu chỉ, phép lạ, nhất là qua cái chết và sự phục sinh, và sau cùng bằng việc sai Thánh Thần chân lý đến như một chứng tích của Thiên Chúa hằng ở với chúng ta.[29]
Chương này cũng làm sáng tỏ cách thức đón nhận Lời Chúa. Những khái niệm về Lời Chúa, Tin Mừng, Nước Thiên Chúa và truyền thống được trình bày trong Hiến Chế về Mạc khải làm nên ý nghĩa của giáo lý. Với ý nghĩa này, việc loan báo Tin mừng của Giáo Hội trở thành điểm nhắm bắt buộc của giáo lý. Giáo Hội hiện hữu để loan báo Tin Mừng[30], nghĩa là đem Tin Mừng vào mọi tầng lớp nhân loại và nhờ sự tiếp xúc này làm thay đổi từ bên trong và làm cho nhân loại được đổi mới.[31]
Chương II : Giáo lý trong công cuộc loan báo Tin mừng.
Chương II xác định vị trí của giáo lý trong khuôn khổ loan báo Tin Mừng và đặt giáo lý trong tương quan với các hình thức khác của sứ vụ Lời Chúa. Nhờ tương quan này, người ta khám phá cách dễ dàng hơn đặc tính riêng của giáo lý :
• Tiền phúc âm hóa (Pré-évangélisation) : là truyền giáo cho những người chưa tin hay những người dửng dưng với tôn giáo, nhằm thức tỉnh đức tin nơi họ. Giáo lý giúp cho đức tin mới chớm nở được chín chắn và sát nhập họ vào cộng đồng tín hữu qua việc trở lại với đức tin Kitô giáo. Như vậy hai hình thức này khác nhau và bổ túc cho nhau.
• Khai tâm Kitô giáo (Initiation chrétienne) : Đức tin là lời đáp trả của con người trước Thiên Chúa được bắt đầu bằng nhiệm tích Thánh tẩy. Giáo lý là yếu tố căn bản cho việc chuẩn bị lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo, nhất là bí tích rửa tội (tuyên xưng đức tin). Mục đích của giáo lý là làm cho đức tin của mọi người trở nên sống động, minh bạch và hữu hiệu [32]
• Giáo dục thường xuyên đời sống đức tin (Éducation permanente de la foi) : việc giáo dục này được thực hiện dưới nhiều hình thức của giáo lý tùy theo nhu cầu, trình độ và môi trường…
Chương III : Bản chất, mục đích và sứ vụ của giáo lý
Chương này nhấn mạnh đến :
• Bản chất của giáo lý : Việc dạy giáo lý không tách khỏi các hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo Hội, nên việc dạy giáo lý cũng nằm trong bản chất của Giáo Hội. Giáo Hội tiếp tục sứ vụ làm thầy giáo dục đức tin dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
• Mục đích của giáo lý là giúp tín hữu diễn tả niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi qua việc kết hiệp mật thiết với Đức Kitô và nên một với Ngài.
• Sứ vụ của giáo lý là đạt được mục đích trên qua việc học hỏi về Chúa, cử hành phụng vụ, sống đức tin cách cụ thể và chiêm ngắm mầu nhiệm Đức Kitô. Ngoài ra giáo lý còn có nhiệm vụ giúp tín hữu sống chiều kích Giáo Hội và tích cực tham gia việc truyền giáo.
PHẦN II : SỨ ĐIỆP TIN MỪNG
Phần này nói về nội dung của sứ điệp Tin Mừng, gồm hai chương :
Chương I : Các quy tắc và tiêu chuẩn để trình bày sứ điệp Phúc Âm trong giáo lý
Ấn định những quy tắc và tiêu chuẩn mà giáo lý phải theo để trình bày nội dung giáo lý :
• Nguồn mạch của giáo lý : Lời Chúa.
• Lời Chúa được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
• Trung tâm điểm của giáo lý : Chúa Kitô và các mầu nhiệm của Người.
• Sứ điệp của Đức Kitô : Tin Mừng Nước Thiên Chúa đem lại ơn cứu độ.
• Lịch sử ơn cứu độ.
• Hội nhập sứ điệp cứu độ vào trong các nền văn hóa khác nhau.
Chương II : Niềm tin của chúng ta, niềm tin của Giáo Hội.
Chương II được dành ra để trình bày giáo lý của Hội Thánh công giáo như một bản văn để quy chiếu mỗi lúc muốn truyền đạt đức tin qua giáo lý cũng như muốn soạn thảo ra các sách giáo lý địa phương. Bản văn cũng cho các nguyên tắc nền tảng để soạn giáo lý cho các Giáo Hội địa phương.
Hai cuốn : Giáo lý chung của Giáo Hội công giáo và Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý là hai dụng cụ khác nhau và bổ túc cho nhau, rất cần thiết cho việc dạy giáo lý.
PHẦN III : SƯ PHẠM ĐỨC TIN
Phần này được trình bày dưới một hình thức khá mới bằng cách nêu lên tính thiết yếu của một đường lối sư phạm đức tin dựa trên sư phạm của Thiên Chúa. Đây là vấn đề có liên hệ đến cả thần học lẫn các khoa học nhân văn.
Khi nói đến khoa sư phạm đức tin, không phải là vấn đề truyền thông một sự hiểu biết loài người dù hết sức cao sâu, nhưng là vấn đề truyền thông mạc khải của Thiên Chúa cách trọn vẹn.[33]
Chương I : Sư phạm của Thiên Chúa, nguồn gốc và mẫu mực của sư phạm đức tin.
Chương này trình bày sư phạm của Thiên Chúa, của Đức Kitô và của Giáo Hội, được coi như mẫu mực của tất cả các khoa sư phạm khác.
Chương II : Các phương pháp
Trong việc truyền đạt đức tin, Giáo Hội không có một phương pháp riêng hay một phương pháp duy nhất nào. Nhưng dưới ánh sáng của khoa sư phạm Thiên Chúa, Giáo Hội sử dụng các phương pháp hiện hành, gạn lọc những gì tốt đẹp, đúng đắn, thích hợp có thể phục vụ cho việc rao giảng Tin Mừng ; đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo lý viên, không có một phương pháp nào miễn cho người giáo lý viên bổn phận nghiên cứu cách cụ thể cách thức truyền đạt nội dung bài giáo lý.
Ngoài ra, cộng đoàn giáo xứ, các nhóm, các tổ chức đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển đời sống đức tin cụ thể của một con người.
PHẦN IV : CÁC ĐỐI TƯỢNG GIÁO LÝ
Phần IV nhấn mạnh : giáo lý nhắm vào những ai. Phần này có 5 chương ngắn. Nghiên cứu các tình huống rất khác nhau, các con đường mà giáo lý nhắm tới, các khía cạnh liên quan đến tình huống xã hội, tôn giáo và bàn cách đặc biệt về vấn đề hội nhập văn hóa.
Chương I : Vài nét chung về việc thích nghi với các đối tượng giáo lý.
Tất cả mọi tín hữu đều được kêu gọi lớn lên trong đức tin, nên họ có nhu cầu và có quyền học giáo lý. Tuy nhiên việc truyền đạt sứ điệp Tin Mừng phải phù hợp với cá nhân, với cộng đoàn nơi cá nhân cùng chung sống và hoàn cảnh sống của từng người.
Chương II : Giáo lý theo tuổi.
Nêu lên sự quan trọng của việc dạy giáo lý theo tuổi. Chương này cho một số đặc tính và chỉ dẫn quan trọng trong việc soạn thảo và dạy giáo lý cho người lớn, giới trẻ, trẻ em và người cao niên.
Chương III : Giáo lý trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Giáo lý phải được truyền đạt một cách đặc biệt và phù hợp cho những người khuyết tật, bị bỏ rơi và những thành phần đặc biệt trong xã hội. Giáo lý phải thực sự đi vào môi trường sống của con người.
Chương IV : Giáo lý trong hoàn cảnh xã hội tôn giáo.
Hiện nay người tín hữu thường sống trong những môi trường đa tôn giáo và đảng phái, một môi trường gợi lên những vấn đề thật tế nhị và phức tạp với những niềm tin khác nhau. Hơn nữa, tại nhiều nơi, đức tin người công giáo luôn phải đương đầu với phong trào tục hóa, kể cả vô thần, đôi khi bị hăm dọa và uy hiếp… Trước những hoàn cảnh đó, giáo lý cần phải nghiên cứu kỹ môi trường để giúp người tín hữu đào sâu, củng cố, nuôi dưỡng và làm cho đức tin của họ trưởng thành hơn.
Chương này cũng nhấn mạnh thái độ tôn trọng của người tín hữu với các tôn giáo khác.
Chương V : Giáo lý trong hoàn cảnh văn hóa xã hội.
Việc dạy giáo lý phải phù hợp với hoàn cảnh văn hóa đương thời, nghĩa là phải đưa sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng văn hóa và các nền văn hóa. Muốn thế, việc dạy giáo lý phải tìm hiểu các nền văn hóa và cách thức diễn tả có ý nghĩa nhất của chúng ; phải tôn trọng các giá trị và kho tàng phong phú riêng của mỗi nền văn hóa. Nhờ vậy giáo lý mới có thể truyền đạt sứ điệp Tin Mừng cách thích hợp với từng nền văn hóa khác nhau.
PHẦN V : GIÁO LÝ TRONG CÁC GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
Phần V coi các Giáo Hội địa phương là trọng tâm hấp lực của giáo lý ; Giáo Hội này có nhiệm vụ chính là cổ vũ, tiên đoán, canh chừng và phối hợp mọi sinh hoạt giáo lý. Phần này mô tả đặc biệt vai trò tương xứng của các cán bộ giáo lý khác nhau (họ luôn tìm được điểm quy chiếu nơi vị chủ chăn của Giáo Hội địa phương), cũng như các đòi hỏi phải huấn luyện trong từng trường hợp.
Chương I : Sứ vụ giáo lý trong các giáo hội địa phương và các giáo lý viên.
Chương này suy nghĩ về sứ vụ của giáo lý và vai trò của những người tham dự vào sứ vụ này. Các Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đều phải tích cực dấn thân vào sứ vụ này tùy theo mức độ trách nhiệm và đặc sủng riêng của mình.
Chương II : Huấn luyện giáo lý viên
Việc huấn luyện giáo lý viên đóng vai trò quyết định trong việc dạy giáo lý. Muốn dạy giáo lý có hiệu quả, giáo lý viên cần được đào tạo kỹ lưỡng về mặt tâm linh, nhân bản, thần học và kỹ năng. Nếu không, giáo lý viên không thể chu toàn trách nhiệm cao cả được ủy thác.
Chương III : Nơi chốn và những nẻo đường của giáo lý
Gia đình, giáo xứ, học đường, các hội đoàn, các phong trào… là nơi chốn, là không gian thích hợp cho việc dạy giáo lý. Vì vậy các tín hữu được mời gọi gia nhập cụ thể vào một cộng đoàn.
Chương IV : Tổ chức mục vụ giáo lý trong các Giáo Hội địa phương.
Chương 4 bàn đến những tổ chức đặc biệt hơn liên quan đến việc huấn giáo như các Ủy Ban mục vụ huấn giáo cấp thế giới, quốc gia, giáo phận, giáo xứ… Các Ủy Ban này hướng dẫn mọi sinh hoạt huấn giáo trong phạm vi của mình và đề nghị những cách thức áp dụng cụ thể để việc dạy dỗ đem lại tới hiệu quả thích đáng.
PHẦN KẾT
Phần kết kêu gọi phải tăng cường sinh hoạt giáo lý, ca ngợi sự suy tư và các hướng đi bằng cách mời gọi mọi người đặt tin tưởng nơi hoạt động của Chúa Thánh Thần và vào sự hiệu quả của Lời Chúa được gieo vãi trong tình yêu.
Tóm lại : Mục tiêu của cuốn Chỉ Nam này nêu ra “các nguyên tắc nền tảng có tính thần học và mục vụ, được rút ra từ Huấn Quyền của Giáo hội, nhất là của Công Đồng Vaticanô II, làm sao để hoạt động mục vụ trong sứ vụ Lời – mà cụ thể là giáo lý – có thể được hướng dẫn và sắp xếp thứ tự cho thích nghi hơn”[34].
Ý hướng trước đây cũng như bây giờ thiết yếu ở chỗ là đưa ra những suy tư và những nguyên tắc hơn là gợi lên các áp dụng trực tiếp hoặc cho những hướng dẫn thực tế.
Ngay từ đầu, phải hiểu đúng đắn bản chất và các mục tiêu của giáo lý cũng như hiểu các chân lý và các giá trị phải truyền đạt để tránh được các thiếu sót, các sai lầm trong vấn đề giáo lý[35].
Thẩm quyền riêng của hàng Giám mục là cho áp dụng cụ thể các nguyên tắc và các điều tuyên bố ấy bằng các định hướng, các chỉ dẫn mang tính cách quốc gia, từng miền, từng địa phận, bằng các sách giáo lý và bằng mọi phương tiện khác mà các ngài phán đoán là thích hợp để thăng tiến giáo lý cho kết quả.
Dĩ nhiên, tất cả các phần của Chỉ Nam không có tầm quan trọng giống nhau. Những phần đề cập tới mạc khải, tới bản chất của giáo lý, tới các tiêu chuẩn chỉ đạo việc loan báo sứ điệp Kitô giáo đều có giá trị cho mọi người. Ngược lại, các phần có liên hệ tới tình huống hiện tại, đến phương pháp luận và cách thức thích ứng giáo lý vào các lứa tuổi và các bối cảnh văn hóa khác nhau, nên được coi như là những chỉ dẫn và định hướng.
Cuốn Chỉ Nam chủ yếu nhắm vào các Giám mục, các Hội Đồng Giám mục và nói chung những ai thừa lệnh Giám mục và có trách nhiệm trong lãnh vực giáo lý. Dĩ nhiên cuốn Chỉ nam là một dụng cụ hữu ích cho việc đào tạo các thí sinh vào chức linh mục, cho việc thường huấn của các linh mục và để đào tạo các giảng viên giáo lý.
Một mục tiêu tức khắc của cuốn Chỉ Nam là giúp cho việc soạn thảo các hướng dẫn dạy giáo lý và các sách giáo lý. Hợp với các gợi ý trước đây của số đông Giám mục, cuốn Chỉ Nam này đã thêm vào nhiều ghi chú và nhiều qui chiếu nên chúng có thể rất ích cho việc khai triển các phương tiện này.
Khi được gởi tới các Giáo Hội địa phương, có những tình huống và những nhu cầu mục vụ rất khác nhau, vì thế cuốn Chỉ Nam chỉ có thể xem xét được các tình huống chung chung. Cũng phải hiểu như thế khi đề cập đến việc mô tả cách tổ chức giáo lý ở các cấp độ khác nhau. Khi sử dụng cuốn Chỉ nam nên để ý tới nhận xét này : Cũng giống như bản văn 1971 đã nhận xét, đối với những miền mà trình độ giáo lý đã cao, cả về thể chất lẫn phương tiện, cuốn Chỉ nam có thể không đầy đủ, nhưng ở nơi mà giáo lý chưa phát triển, nó lại có vẻ quá thừa.
Giáo Hội đã phổ biến tài liệu này như một chứng từ mới nói lên mối bận tâm ưu ái của Tòa Thánh đối với sứ vụ giáo lý : « Chúng tôi mong muốn nó được đón nhận, được kiểm tra và nghiên cứu kỹ lưỡng mà vẫn để ý tới các nhu cầu mục vụ của từng Giáo Hội địa phương. Chúng tôi cũng mong rằng tài liệu này sẽ đưa tới một sự nghiên cứu và tìm tòi sâu xa hơn để đáp lại các nhu cầu của giáo lý cũng như các quy tắc và các định hướng của huấn quyền Giáo Hội.
Xin Đức Trinh nữ Maria, ngôi sao chiếu sáng trên sự đổi mới trong việc rao giảng Tin Mừng, dẫn đưa chúng ta tới sự hiểu biết Chúa Giêsu Kitô là Thầy và Chúa chúng ta »[36].
KẾT : Những chỉ dẫn của Giáo Hội trong 3 tài liệu nói trên cho ta một cái nhìn rõ ràng và chính xác hơn về đường hướng dạy giáo lý. Dạy giáo lý không phải là giúp chạy theo những nhu cầu hợp sở thích hay đáp ứng những đòi hỏi thời đại, nhưng là tìm cách khám phá kho tàng phong phú của Lời Chúa để giúp các kitô hữu sống đạo cách tốt đẹp giữa xã hội văn minh vật chất và luôn thay đổi. Theo đường hướng này, ta có thể xác định mục đích và nội dung của giáo lý.
[1] TG 2 [2] Mt 28, 19-20 [3] DGL 15 [4] DGL 14 [5] LBTM 1 [6] LBTM 18 [7] LBTM 18 [8] LBTM 18 [9] LBTM 19 [10] LBTM 20 [11] LBTM 21 [12] LBTM 22 [13] LBTM 23 [14] LBTM 23 [15] LBTM 23 [16] LBTM 24 [17] Rm 10, 14-17 [18] LBTM 69 [19] LBTM 70 [20] LBTM 75 [21] LBTM 76 [22] LBTM 77 [23] LBTM 78 [24] LBTM [25] LBTM 80 [26] Mt 28, 19-20 [27] Jn 14, 6 [28] Theo nghĩa chủ động, Mạc khải là hành vi của Thiên Chúa, Ngài tự hạ mình đến gặp gỡ con người và kêu gọi con người đáp trả mạc khải của Ngài bằng niềm tin để được thông hiệp vào sự sống. [29] Hiến chế về Mạc Khải số 4 [30] Col 1,26 [31] LBTM 18 [32] SL Nhiệm vụ mục vụ của các Giám mục số 14 [33] DGL 58 [34]Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý năm 1997, phần giới thiệu [35] Như trên [36] Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý , phần mở đầu
BÀI 12 MỤC ĐÍCH VÀ NỘI DUNG GIÁO LÝ
Khi dạy giáo lý ta không nên đơn giản nghĩ rằng cứ dạy những gì được trình bày trong các sách giáo lý, còn việc phải theo sát mục đích và nội dung giáo lý là bổn phận của những người soạn sách giáo lý. Quan niệm như thế cũng một phần đúng, vì người soạn sách giáo lý chắc chắn phải thấu hiểu những quy tắc và những yêu cầu của Giáo Hội. Nhưng thực ra, nếu dựa vào những chỉ dẫn của Giáo Hội trong phần II cuốn Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý thì nội dung giáo lý phong phú hơn nhiều so với các bản văn giáo lý hiện hành.
Sách giáo lý mặc dù cần thiết nhưng các giáo lý viên cũng phải hiểu rõ mục đích và nội dung của giáo lý, để trong khi trình bày, chúng ta biết phân biệt đâu là điểm chính cần nhấn mạnh, đâu là điểm phụ chỉ cần lướt qua.
1. CHỦ ĐÍCH CỦA GIÁO LÝ
Mục đích của giáo lý là giáo dục đức tin. Tông huấn Dạy giáo lý của Đức Gioan Phaolô II đã khẳng định như sau : “ Mục đích đặc biệt của việc dạy giáo lý, trong toàn thể công cuộc loan báo Tin Mừng là, với sự trợ giúp của ơn Chúa, làm phát triển đức tin còn thơ ấu, thăng tiến tới mức độ trưởng thành viên mãn và nuôi dưỡng hằng ngày đời sống kitô của các tín hữu. Nghĩa là giúp người tín hữu tin và tiếp nhận con người Đức Kitô làm Chúa duy nhất và sau khi đã gắn bó hoàn toàn với Người bằng sự chân thành hoán cải tâm hồn, người tín hữu cố gắng tìm hiểu Chúa Kitô cùng với các mầu nhiệm của Người, Vương quốc của Người, các đòi hỏi chứa đựng trong Tin Mừng và các nẻo đường mà Người đã vạch ra cho ai muốn theo Người” (DGL 20).
Qua định nghĩa trên, ta có thể tóm tắt mục đích của giáo lý như sau :
– Truyền thông kiến thức về Thiên Chúa, làm phát triển sự hiểu biết các mầu nhiệm của Đức Kitô và Giáo Hội của Người.
– Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa bằng cách đổi mới bản thân, trở thành một thụ tạo mới.
– Bước vào đời sống mới trong Đức Kitô, tức là đi theo vết chân Người và nên một với Người.
Muốn đạt được mục đích trên, đức tin của người kitô hữu phải mang những chiều kích sau đây :
• Đức tin có nội dung vững chắc dựa trên mạc khải của Thiên Chúa, đặc biệt là con người và giáo huấn của chính Đức Kitô.
• Một đức tin mang tính cộng đồng nghĩa là đón nhận đức tin từ Giáo Hội, sống đức tin trong lòng Giáo Hội và cùng liên đới, cùng có trách nhiệm về đức tin của anh em.
• Một đức tin dấn thân là biết chấp nhận từ bỏ những gì không hợp với Tin Mừng Chúa Kitô và luôn sống phó thác để chân lý biến đổi bản thân mình mỗi ngày nên tốt hơn.
• Một đức tin phục vụ là biết làm chứng cho niềm tin bằng cuộc sống yêu thương phục vụ trong mọi hoàn cảnh sống.
Vì vậy, nếu giáo lý luôn hướng theo mục đích nói trên thì chắc chắn đời sống đạo của các kitô hữu được hoàn thiện rất nhanh.
2. NỘI DUNG CỦA GIÁO LÝ
Về nội dung giáo lý, chúng ta cũng đọc thấy trong Tông huấn Dạy giáo lý : “Nội dung giáo lý cũng là nội dung của tất cả việc loan báo Tin Mừng. Cũng một sứ điệp Tin Mừng cứu độ, được nghe cả trăm lần và được tiếp nhận với cả tâm hồn, thì trong việc dạy giáo lý, luôn luôn được đào sâu nhờ sự suy tư có hệ thống, nhờ sự ý thức luôn được khích lệ hơn, về các ảnh hưởng của sứ điệp ấy vào đời sống cá nhân mỗi người ; nhờ việc sứ điệp thấm nhuần vào cái khối linh hoạt và hài hòa là đời sống kitô hữu trong xã hội và trong thế giới” (DGL 26).
Và trong số 27, Tông huấn viết tiếp :
“Việc dạy giáo lý bao giờ cũng lấy nội dung ở nguồn mạch sống động là Lời Chúa, thông truyền trong Kinh Thánh và Thánh Truyền vì cả hai hợp thành một kho tàng thánh thiện duy nhất chứa đựng Lời Chúa” (DGL 27).
Như vậy học giáo lý chính là học Lời Chúa. Ngoài Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa được chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, còn có Thánh truyền là Lời Chúa được ủy thác cho các Tông đồ và những người kế vị các ngài. Nói cách khác nội dung giáo lý là toàn bộ Mầu nhiệm Kitô giáo mà trung tâm điểm là Mầu nhiệm Cứu Độ. Chính Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ này. Nội dung giáo lý được triển khai trong sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo. Chúng ta nhắc lại dàn bài của cuốn giáo lý :
I. TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN : gồm hai chương
– Đức tin là gì ?
– Tin những điều gì ?
Phần này là lời tuyên xưng đức tin của người kitô hữu. Trước những mạc khải của Thiên Chúa, con người đáp trả lại bằng chính niềm tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi.
II. CỬ HÀNH ĐỨC TIN : gồm hai chương:
– Kế hoạch bí tích
– Bảy bí tích của Giáo Hội.
Phần này trình bày ơn cứu độ đã được Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Kitô, nhưng nay vẫn được tiếp tục thực hiện trong việc cử hành phụng vụ của Giáo Hội, đặc biệt trong bảy bí tích.
III. ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN : gồm hai chương :
– Ơn gọi của con người: đời sống trong Thần Khí
– Mười điều răn
Mục đích của việc Thiên Chúa tạo dựng nên con người là để họ được hạnh phúc. Phần này trình bày những nẻo đường đưa đến hạnh phúc như sống ngay thẳng, tự do theo lề luật và ân sủng của Chúa cũng như thực thi mệnh lệnh mến Chúa và yêu người được triển khai qua Mười điều răn.
IV. CẦU NGUYỆN TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN : gồm hai chương
– Cầu nguyện là gì ?
– Cầu nguyện như thế nào ?
Phần này nói về ý nghĩa và tầm quan trọng của cầu nguyện trong đời sống các kitô hữu. Nền tảng của mọi kinh nguyện chính là Kinh Lạy Cha.
Tóm lại, sách Giáo lý Công giáo trình bày cách hệ thống về toàn bộ đức tin cũng như mọi sinh hoạt tôn giáo của người kitô hữu. Tuy nhiên khi dạy giáo lý không phải ta cứ lần lượt kê khai mọi chân lý là đủ và cũng không phải hết mọi chân lý đều có tầm quan trọng ngang nhau, nhưng phải trình bày các Mầu nhiệm Kitô giáo một cách mạch lạc và liên kết với nhau thành một toàn thể ăn khớp và liên tục. Do đó, ta có thể trình bày theo cấu trúc sau đây :
• Chúa Ba Ngôi : Mầu nhiệm Ba Ngôi phát sinh mọi mầu nhiệm khác. Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần cùng chia sẻ một nguồn sống và một tình yêu (hiệp thông nội tại). Và qua Đức Kitô, mỗi người chúng ta được mời gọi gia nhập cộng đoàn Ba Ngôi để trở thành con cái Thiên Chúa (hiệp thông ngoại tại). Ý định cứu rỗi của Thiên Chúa phát sinh từ hiệp thông này.
• Đức Kitô là trung tâm : Trọng tâm của giáo lý là một Ngôi Vị : Đức Giêsu Kitô (DGL 5-6). Dạy giáo lý là giúp người khác đi vào sự thông hiệp thân mật với Đức Kitô, là tìm hiểu con người của Ngài, giáo huấn của Ngài và công việc cứu thế của Ngài. Khi nói đến Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ, Pascal đã phát biểu như sau : “Cựu ước ngước nhìn Đức Kitô như sự hoàn tất của mình. Tân ước ngoảnh nhìn Đức Kitô như khởi điểm của mình. Cả hai Giao ước nhìn Đức Kitô như trung tâm điểm của mình”.
• Lịch sử cứu độ : Ý định cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện từng bước trong thời gian, được diễn tiến qua nhiều giai đoạn liên tục :
– Chuẩn bị ơn cứu độ : Cựu ước
– Thực hiện ơn cứu độ : Tân ước
– Phân phối ơn cứu độ : thời Giáo Hội
– Công cuộc cứu độ sẽ được hoàn tất trong Nước Trời: sau ngày tái lâm của Đức Kitô.
• Các mầu nhiệm : mà trung tâm điểm là mầu nhiệm Phục sinh.
• Các nhiệm tích : Nhiệm tích thông ban đời sống mới trong Đức Kitô. Mỗi nhiệm tích là một nguồn suối chuyển thông sự sống của Đức Kitô cho con người và làm cho con người được gặp gỡ Đức Kitô cách thân tình.
• Sống theo gương Đức Kitô : Giáo lý giúp con người theo gương Đức Kitô bằng việc thực thi giới luật được đúc kết trong tám mối phúc và bằng các nhân đức, nhất là các nhân đức đối thần.
BÀI 13 MỘT CÁI NHÌN TỔNG QUÁT VỀ LỊCH SỬ GIÁO LÝ CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Kitô giáo thuộc về lịch sử, đã chào đời trong lịch sử từ biến cố Đức Giêsu Kitô, người Nazareth. Giáo Hội tưởng niệm Người đang sống, hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi giữa dòng lịch sử.
Theo dòng thời gian, từ thời các tông đồ là những nhân chứng về cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô cho đến nay, mọi thế hệ Kitô giáo đều truyền đạt không mệt mỏi những gì họ đã nhận lãnh được cho người khác. Trải qua bao thế kỷ, khoa Huấn giáo luôn là một phương tiện thích hợp để chuyển đạt những truyền thống sống động của Giáo Hội. Dù được sử dụng dưới bất cứ hình thức nào, giáo lý không ngừng khơi dậy và củng cố đức tin. Việc nhìn lại lịch sử giáo lý của Giáo Hội ở đây sẽ giúp chúng ta phân biệt đâu là điểm chính, đâu là điểm phụ trong việc dạy giáo lý, đồng thời cho chúng ta hiểu và trân trọng hồng ân cao quý được Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Giáo Hội : đó là Đức tin.
I. NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA KHOA HUẤN GIÁO
Ngay đầu Tông huấn Dạy giáo lý, ĐTC Gioan Phaolô II gọi Đức Kitô là “Đức Kitô giảng dạy”(n. 7-8). Tên gọi này nhấn mạnh phẩm chất của Đấng giảng dạy trong Tin Mừng và bản tính giáo huấn của Người vượt xa phẩm chất của các thầy dạy ở Israel, nhờ dây liên hệ duy nhất ở giữa điều Người nói, việc Người làm và bản thân Người. Người đã không ngần ngại tuyên bố tính cách đặc biệt độc nhất chức vị làm Thầy của Người “ Thầy của các ngươi chỉ có một” (Mt 23,8).
Các Sử gia Tin Mừng là những người đầu tiên đã làm nổi bật cách thức giảng dạy của Đức Kitô khi Người dùng các dụ ngôn với những ẩn ngữ thật linh động. Cách sử dụng loại văn kể chuyện trong các Tin Mừng chứng tỏ rằng : “Tất cả cuộc đời của Đức Kitô là một bài giảng liên tục : sự im lặng, phép lạ, cử chỉ, việc cầu nguyện, tình yêu đối với nhân loại, việc Người yêu quý trẻ nhỏ và người nghèo khổ… ”[1]. Như vậy, ngay từ sau biến cố phục sinh, Đức Kitô được coi như khuôn mẫu của việc rao giảng Tin mừng. Hình ảnh Thầy dạy của Người in sâu vào tâm trí các môn đệ đã hướng dẫn toàn thể cuộc đời các ông trong sứ mệnh tiếp tục đi loan báo Tin mừng khắp thế gian.
II. GIÁO LÝ THỜI CÁC TÔNG ĐỒ :
Sau khi Chúa Kitô về trời và sau khi được tràn đầy Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ bắt đầu rao giảng và làm chứng rằng các lời hứa của Thiên Chúa đã đựơc thực hiện hoàn toàn qua sự Phục Sinh của Chúa Kitô và ân sủng của Chúa Thánh Thần, rồi các Ngài tiếp tục việc huấn giáo ấy, mà phần cốt yếu là kể lại các lời giảng dạy và các hành vi của Chúa Kitô : bốn Phúc Âm chỉ là kết quả việc viết thành văn các bài Huấn Giáo của các Tông đồ. Vì các Ngài kể lại việc chính các Ngài đã chứng kiến, lời chính các Ngài đã nghe và đã nhớ, nên Phúc Âm là mạc khải rất sinh động về Chúa Giêsu Kitô và giải thích sứ điệp của Ngài.
Nếu đọc các thư tông đồ, ta thấy trung tâm duy nhất của việc rao giảng của các ngài là Đức Kitô. Các ngài hoàn toàn làm chứng về Đức Kitô bằng niềm tin và bằng kinh nghiệm về Người. Các lời rao giảng này đã được truyền bằng miệng trước khi được viết ra.
Vào những ngày đầu của Giáo Hội, việc dạy giáo lý được gọi là Kérygme (rao giảng Tin Mừng), nghĩa là công bố cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô (căn bản của đức tin) và làm phép rửa nhân danh Đức Kitô. Việc rao giảng được thực hiện dưới nhiều hình thức, đặc biệt là hình thức : Bài giảng (homélie) và lời huấn đức (parénèse : là lời khích lệ về luân lý, đưa ra các chỉ thị tổng quát về tương quan giữa con người trong gia đình và xã hội). Nói chung, các Tông đồ đã biết thích ứng lời loan báo Đức Giêsu Kitô với những hình thức khác nhau của các cộng đoàn. Người ta có thể nói khoa Huấn giáo của Giáo Hội tiên khởi đã mang những hình thức muôn màu muôn vẻ.
Sau thời các tông đồ, việc cử hành phép rửa chỉ được diễn ra sau thời gian huấn giáo về mặt đạo đức. Trong giai đoạn đầu, các ứng viên được khảo sát về những lý do xin theo đạo và về phẩm chất đời sống đạo đức của họ và sau thời gian thử thách 3 năm họ lại được kiểm tra về phong cách đạo đức và việc thực thi bác ái. Trước khi nhận bí tích rửa tội, còn cần phải có những nhân chứng đứng ra bảo lãnh về hạnh kiểm của họ trong cộng đoàn. Việc thực hành này kéo dài cho tới thời kỳ các Giáo Phụ.
III. GIÁO LÝ THỜI CÁC GIÁO PHỤ :
Kế tiếp sứ mạng các Thánh Tông đồ, các Giáo Phụ, là những giáo lý viên có biệt tài giải thích Kinh Thánh, đặc biệt là Tân Ứơc mà các Ngài không ngừng suy niệm. Điều các Ngài dạy là : không phải con người chúng ta dùng khả năng trí tuệ của mình mà khám phá ra được những mầu nhiệm nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ biết được những gì Chúa đã mạc khải, chứa trong Kinh Thánh và trong Thánh Truyền mà Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô có sứ mạng giải đáp cho ta.
Vào thời các Giáo phụ, việc giảng dạy giáo lý trở thành một bổn phận quan trọng của các Giám mục và nội dung giáo lý không những vẫn giữ lại những gì của những thế kỷ đầu mà còn nhấn mạnh đến các mầu nhiệm Kitô giáo và các bí tích, nhất là bí tích Rửa tội, Thêm sức và Thánh thể. Ngoài ra, các kitô hữu sau khi đã rửa tội, vẫn tiếp tục học hỏi về các lễ nghi và việc cử hành các bí tích. Đến thời các giáo phụ, việc dạy giáo lý vẫn nhằm chuẩn bị các tân tòng lãnh nhận bí tích rửa tội, đồng thời nhấn mạnh đến việc giáo dục luân lý.
Nhưng sau thánh Augutinh (431), nhất là ở Tây phương, tình hình Kitô giáo khá ổn định nên việc dạy giáo lý tân tòng ít được quan tâm và người ta chú ý nhiều đến việc rửa tội cho trẻ em, bởi vì theo quan niệm của thời đó (Augutinh) trẻ em chết mà chưa rửa tội thì không được lên thiên đàng và lý thuyết này được tin trong một thời gian khá lâu dài.
Hơn nữa, ở Tây phương, một nền văn minh mới đang chớm nở, Giáo hội và xã hội đang dần nối kết lại với nhau trong mọi lãnh vực. Do đó các tín hữu cần có những chỉ dẫn cụ thể giúp họ thực hành những điều cần thiết để chiến thắng sự dữ và được lên Thiên đàng.
III. GIÁO LÝ THỜI TRUNG CỔ :
Vào thời trung cổ, đời sống tôn giáo và xã hội không tách biệt nhau, vì thế nhiệm vụ giảng dạy giáo lý của Giáo Hội nhằm giúp ổn định đời sống xã hội. Các lễ tôn giáo được xếp cho phù hợp với các sinh hoạt xã hội. Khi nói về một làng xã cũng là nói tới một giáo xứ hay một nhà thờ. Chuông nhà thờ vừa để báo hiệu giờ cầu nguyện và giờ làm việc… Nói chung việc dạy giáo lý trong giai đoạn này không có gì nổi bật vì đạo và đời có nhiều điểm lẫn lộn với nhau. Chức năng dạy dỗ, giáo hóa có giới hạn. Chính đời sống hằng ngày, tôn giáo và thế tục, tạo cho người lớn và trẻ em cơ hội sống đức tin một cách cụ thể trong đời sống hằng ngày.
Giữa thế kỷ VIII và X, việc giảng dạy có nhiều tiến triển. Người ta nghiên cứu Cựu Ước nhiều hơn. Đức tin công giáo nhấn mạnh đến Thiên Chúa là trung tâm điểm của vũ trụ, Ngài mạnh mẽ, có khả năng điều khiển và nối kết các dân tộc.
Từ thế kỷ XI đến XIII, người ta có thể nói rằng đó là thời kỳ của Đức Kitô, một Đức Kitô đáng được tôn kính, được rao giảng, Ngài là Vua vũ trụ và nhất là Ngài sẽ đến xét xử trong ngày sau hết.
Cuối thời trung cổ (XIV – XV), người ta nhấn mạnh đến đời sống nội tâm và tính đạo đức cá nhân của các kitô hữu. Đau khổ, bệnh tật được coi như cơ hội tốt để chuẩn bị hạnh phúc đời sau. Bí tích giải tội được coi trọng và được thay đổi (xưng tội cá nhân). Cầu nguyện, khổ chế, việc năng lui tới nhà thờ và sự quan tâm luyện tập các nhân đức là những dấu hiệu của người đạo đức và có niềm tin cao độ. Ngoài ra việc hành hương Thánh Địa và những nơi thánh được thực hành như một việc đạo đức cụ thể.
Ta có thể nói trong nhiều sinh hoạt kitô giáo, thời hậu trung cổ là thời vàng son nhất của Giáo Hội.
IV. GIÁO LÝ THỜI TRUNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI :
Ngay từ thế kỷ XIII, người ta đã có nhiều ước vọng cải cách nền Huấn Giáo trong toàn thể Giáo Hội. Đã có nhiều cố gắng đổi mới nhưng chưa đạt được tiếng vang. Mãi đến thế kỷ XVI, các phong trào cải cách mới nổi dậy. Nhiều sách giáo lý xuất hiện, trong số đó có sách giáo lý của Luther (1529), của Calvin (1542), của Công đồng Trente (1566) và một số sách giáo lý khác. Giáo lý của các anh em Tin Lành cải cách quan tâm đặc biệt đến việc đi sát Kinh thánh, giáo lý của Công Giáo nhấn mạnh đến những kiến thức chi tiết về các mầu nhiệm đức tin, đến căn tính của người kitô hữu, chú giải kinh Tin kính của các tông đồ và khẳng định rằng đức tin của các tông đồ và của Giáo Hội công giáo chỉ là một. Ngoài ra việc giảng dạy cũng nhằm giải thích ý nghĩa các lễ nghi của các bí tích. Tuy nhiên cả hai đều có một điểm chung là giải thích kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, Mười điều răn, đồng thời nhấn mạnh đến việc cầu nguyện trong gia đình và của mỗi cá nhân.
Sau 1660 tức là sau cuốn giáo lý của công đồng Trente, cơ chế hóa việc dạy giáo lý ở các giáo xứ trở thành phổ cập, nhiều sách giáo lý của các địa phận xuất hiện nhằm phục vụ cho các lứa tuổi khác nhau. Để đề phòng những sai lạc, các Giám mục cho phổ biến những phương pháp và những quy định, thanh tra các buổi dạy giáo lý trong các dịp viếng thăm mục vụ và cuối cùng phát hành quyển giáo lý duy nhất trong giáo phận mang danh của Giám mục.
Tuy nhiên, những sách giáo lý địa phận có thể trình bày những xác tín cá nhân của vị Giám mục, điều này dần dần đi vào tập quán : mỗi Giám mục khi lên kế vị đều muốn có một cuốn giáo lý riêng của mình cho địa phận. Giữa những khuynh hướng này, người ta nghĩ đến việc có một cuốn sách giáo lý chung cho toàn thể Hội Thánh.
Từ thế kỷ XIX, các phong trào giáo lý ra đời, các Hội Giáo lý viên tình nguyện nhanh chóng mang tầm cỡ quốc gia, người ta nỗ lực tìm những đường hướng sư phạm thích hợp cho từng lứa tuổi và nhiều phương pháp mới được đem thử nghiệm ngay từ đầu thế kỷ XX.
VI. GIÁO LÝ NGÀY NAY :
Sau công đồng Vaticanô II, thế giới có nhiều biến chuyển, tâm thức con người cũng thay đổi theo, vì thế việc giảng dạy giáo lý ngày càng gặp những khó khăn. Người ta bắt đầu quan tâm đến việc canh tân khoa Huấn giáo. Nhiều thử nghiệm canh tân giáo lý ra đời để đáp ứng những tình hình mục vụ mới mẻ và khác nhau. Những cuộc thử nghiệm nhằm tìm ra những thiếu sót, chỉnh lại hướng đi để dần đưa tới việc xuất bản một cuốn sách Giáo lý chung.
Công đồng Vaticanô II đã ra lệnh soạn thảo một cuốn “Kim Chỉ Nam về việc dạy giáo lý”. Để thực hiện mệnh lệnh của công đồng, Bộ Giáo Sĩ đã kêu mời một ủy ban các chuyên viên và đã tham khảo ý kiến các Hội Đồng Giám mục trên toàn cầu. Các Hội Đồng này đã gởi nhiều gợi ý và nhận xét về dự án. Bản dự thảo được ủy ban chuyên trách và Bộ Giáo huấn Đức Tin duyệt lại. Ngày 18-3-1971, Đức Phaolô VI chính thức phê chuẩn và ngày 11-4-1971, Ngài công bố dưới tựa đề “Kim Chỉ Nam tổng quát việc giáo lý ”.
Ba mươi năm trôi qua kể từ khi công đồng Vaticanô II kết thúc cho tới lúc sắp bước vào thiên niên kỷ thứ ba, hẳn là đã có biết bao nhiêu định hướng và các cổ võ giáo lý phong phú hơn. Có thể nói đây quả là thời gian làm cho Giáo Hội lấy lại sinh khí ban đầu của mình trong việc rao giảng Tin mừng, đặt lại giá trị cho việc dạy dỗ xa xưa của các Giáo Phụ, khuyến khích trở lại hình thức dự tòng ngày xưa một cách khôn ngoan. Từ năm 1971, cuốn Chỉ Nam tổng quát về Giáo lý đã chỉ dẫn các Giáo hội địa phương trên đường dài canh tân giáo lý. Nó đã được coi là điểm quy chiếu cả về nội dung lẫn đường lối sư phạm và các phương pháp phải theo.
Con đường mà bộ môn giáo lý đã đi được trong thời kỳ này là nơi đâu cũng được ghi dấu bởi sự tận tụy, quảng đại của nhiều người, của nhiều sáng kiến đáng phục, của nhiều hoa trái tốt đẹp cho sự giáo dục, sự trưởng thành trong đức tin của trẻ em, giới trẻ và người lớn. Tuy nhiên cũng đã có những thiếu sót về cơ bản giáo lý và kinh nghiệm, điều này đã làm nghèo đi phẩm chất của giáo lý. Phần lớn các thiếu sót này là do bối cảnh văn hóa toàn cầu tiến hóa và do những vấn đề của Giáo Hội không có liên quan với giáo lý.
Huấn quyền của Giáo Hội trong suốt những năm qua đã không ngừng quan tâm tới việc mục vụ giáo lý. Trong tất cả mọi châu lục, nhiều Giám mục và nhiều Hội Đồng Giám mục đã tạo ra những sức bật đáng kể cho sinh hoạt giáo lý, nhất là bằng việc phổ biến các sách giáo lý có giá trị, đưa ra các đường hướng mục vụ, khuyến khích đào tạo người chuyên môn và cổ võ những nghiên cứu giáo lý. Các nỗ lực này thật phong phú và có ảnh hưởng thuận lợi cho việc thực hành giáo lý của các Giáo hội địa phương. Cuốn “Nghi thức khai mở Kitô giáo cho người lớn” công bố ngày 6-1-1972 do Bộ Phụng Tự Thánh cũng mang lại cho việc canh tân giáo lý một sự phong phú tích cực.
Cũng nên đặc biệt nhắc lại ở đây sứ vụ của Đức Phaolô VI, vị Giáo hoàng đã hướng dẫn Giáo Hội vào thời kỳ đầu của hậu công đồng. Đức Gioan Phaolô II đã nói về ngài như sau : “Qua cử chỉ, lời giảng dạy, cách thức chú giải uy tín của người về công đồng Vaticanô II – mà có lẽ người coi như là một cuốn giáo lý vĩ đại của thời hiện đại, qua trọn cuộc sống của người, Đức Phaolô VI, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi đã phục vụ ngành giáo lý của Hội Thánh cách đặc biệt gương mẫu”[2].
Một viên đá góc trụ có tính quyết định cho ngành giáo lý chính là sự suy tư triệt để dấn thân nhân dịp đại hội của Hội nghị Thượng Đỉnh Giám mục bàn về công việc Phúc âm hóa trong thế giới ngày nay vào tháng 10 năm 1974. Các đề nghị trong dịp này được đệ trình lên Đức Thánh Cha Phaolô VI và ngài đã cho công bố một Tông huấn mang tên Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin mừng) ngày 8-12-1975. Cũng như một số tài liệu khác, tài liệu này đề nghị một nguyên tắc rất đáng nhấn mạnh: giáo lý là công việc loan báo Tin mừng nằm trong sứ vụ lớn lao của Giáo Hội. Từ nay trở đi, sinh hoạt giáo lý phải được coi như là thành phần trong các nhu cầu cấp bách và trong các mối bận tâm đặc biệt cho sứ vụ truyền giáo của thời đại chúng ta.
Cũng vậy, khóa họp của Thượng Hội Đồng Giám mục do Đức Phaolô VI triệu tập tháng 10 năm 1977 đã chọn môn giáo lý làm chủ đề phân tích và suy nghĩ cho các Giám mục. Hội nghị đã thấy “trong việc canh tân giáo lý có một ơn ban quý báu của Chúa Thánh Thần cho Giáo hội ngày nay”[3].
Đức Gioan Phaolô II đã tiếp nhận gia sản này năm 1978 và ngài đã hình thành các hướng đi đầu tiên của ngài trong huấn dụ tông đồ mang tên “Catechesi tradendae” (Dạy giáo lý) vào 16.10 1979. Huấn dụ này làm thành một tổng thể ăn khớp với huấn dụ “Evangelii Nuntiandi”( Loan báo Tin mừng) và phục hồi đầy đủ ngành giáo lý trong khung cảnh Phúc-âm-hóa.
Trong triều đại giáo hoàng của mình, Đức Gioan Phaolô II đã kiên trì thực hiện quyền dạy dỗ mang giá trị lớn lao về phương diện giáo lý. Trong các bài diễn văn, trong các thông điệp, các giáo huấn của người, nổi lên mười hai tông huấn, tính từ Redemptor Hominis (Đấng cứu chuộc loài người) đến Ut unum sint (Để họ nên một). Mười hai tông huấn này làm thành một bộ giáo lý có tính tổng hợp và cơ học, áp dụng sự canh tân đời sống Giáo Hội mà Công Đồng Vaticanô II mong muốn.
Trong các tài liệu thuộc huấn quyền của Đức Gioan Phaolô II, một số có giá trị giáo lý đặc biệt : đó là Tông huấn Đấng Cứu Chuộc loài người (4.3 1979), Thiên Chúa giàu lòng xót thương (Dives in misericordia 30.11.1980 ), Người là Chúa, là đấng ban sự sống (Dominum et vivificantem 18.5.1986) và để xác tín lại tính hợp thức thường hằng của sứ mệnh truyền giáo, có thông điệp Redemptoris Missio ( Sứ vụ Đấng Cứu Thế 7.12.1990).
Thế rồi các đại hội nghị bình thường và ngoại thường của Thượng Hội Đồng giám mục đã có những vang dội riêng trên vấn đề giáo lý. Điển hình là các Thượng Hội Đồng năm 1980 và 1987 về sứ vụ gia đình và về sứ vụ ơn gọi của giáo dân. Công việc của hai Thượng Hội Đồng này được tiếp theo bởi các Tông huấn của Đức Gioan Phaolô II : Tông huấn familiaris consortio (về gia đình 22.11 1981) và Christi fideles laici (Tông huấn Kitô hữu giáo dân 30.12.1988 ). Cũng vậy hôi nghị Thượng đỉnh bất thường năm 1985 đã đánh dấu một cách dứt khoát cả hiện tại lẫn tương lai của giáo lý. Một bản tổng kết 20 năm áp dụng Công Đồng Vaticanô II đã được trình bày vào dịp này và các nghị phụ của Thượng Hội Đồng đã trình lên Đức Thánh Cha bản soạn thảo một cuốn giáo lý phổ quát cho Giáo Hội công giáo. Đức Gioan Phaolô II không những rất ưng thuận đề nghị này mà còn coi đó là công việc của ngài. Thời gian làm việc kiên nhẫn và phức tạp kết thúc, cuốn “Giáo lý của Giáo Hội công giáo” đã được trao cho các Giám mục, các Giáo Hội địa phương dưới hình thức tông hiến Fidei Depositum ( kho Trữ Đức Tin) ngày 11. 10 .1992.
Năm 1997 Thánh bộ Giáo sĩ ban hành cuốn Chỉ dẫn tổng quát việc dạy giáo lý, nhằm cập nhật hóa cuốn 1971.
Nói chung, các sách giáo lý ngày nay đều theo sát những chỉ dẫn của Giáo Hội. Tuy nhiên mỗi Giáo Hội địa phương có thể tìm những phương pháp và những cách diễn tả phù hợp với văn hóa, với truyền thống dân tộc, để Tin mừng của Chúa được đón nhận cách có hiệu quả.
VII. SÁCH GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM :
Giáo Hội Việt nam có nhiều sách giáo lý.
– Cuốn đầu tiên là “Phép giảng tám ngày” của cha Đắc Lộ.(1651)
– “Thánh Giáo yếu lý quốc ngữ” của Đức cha Bá Đa Lộc (1774)
– Yếu lý chung (1959)
– “Thánh giáo Yếu lý” dành cho các giáo phận miền Trung và Nam do các cha Thừa Sai Paris điều khiển.
– “Sách dạy những lẽ cần cho được rỗi linh hồn” dành cho các giáo phận miền Bắc do các cha Thừa Sai Paris điều khiển.
– “Sách Bổn” dành cho các giáo phận do dòng Đa Minh điều khiển.
– “ Sách Bổn” của Đức cha Hồ Ngọc Cẩn, dành cho địa phận Bùi Chu.
– Trước và sau năm 1975, nhiều sách giáo lý của các địa phận và các dòng tu ra đời, nhằm phục vụ nhu cầu mục vụ của các giáo xứ.
Hiện nay Giáo hội Việt Nam có nhiều nỗ lực mới trong việc soạn thảo sách giáo lý và huấn luyện giáo lý viên, nhưng hình như chưa có một nỗ lực chung và đồng loạt. Nhiều nơi vẫn còn chuộng kiểu giáo lý từ chương (hỏi thưa), vì chỉ học những công thức và không giúp học viên tiến xa hơn. Đây mới là mức độ 1 của việc giáo dục đức tin cho người tín hữu mà thôi.
Kết luận : Việc Huấn giáo ngày nay đang đứng trước tình hình một văn hóa mới chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Vì thế, Huấn giáo phải nhìn lại lịch sử của mình mà rút ra những bài học quý báu từ những kinh nghiệm cụ thể qua mọi thời đại. Dù bất cứ dưới hình thức nào, khoa Huấn giáo cũng luôn nhắm tới việc giúp người ta sống đức tin cách thích hợp. Đức tin không phải là một lãnh vực tách biệt, nhưng phải nối kết được các khía cạnh trong cuộc sống và giúp cho chúng ăn khớp với nhau. Mặt khác Huấn giáo cũng phải đảm nhận mọi đòi hỏi của công bình xã hội và tuân thủ chặt chẽ những quy luật đạo đức trong việc giao lưu giữa con người.
[1] DGL 9 [2] ĐTC Gioan Phaolô II, Tông huấn Dạy giáo lý số 2 [3] DGL 3
BÀI 14 MỘT VÀI THÁCH ĐỐ TRONG VIỆC DẠY GIÁO LÝ
I. NHỮNG THÁCH ĐỐ CHUNG
1. Xã hội nặng tính vô thần
Ở đây chúng ta không tìm hiểu thuyết vô thần nhưng chỉ nói đến tình trạng và nguyên nhân của vô thần trong xã hội ngày nay.
– Tình trạng vô thần :
Theo thống kê của Viện Truyền giáo năm 2000 thì
– Dân số thế giới : 6.055.049.000 người.
– Kitô hữu : 1.999.566.000 người, (trong đó công giáo gần 1 tỷ)
– Người ngoài kitô : 4.038.709.000 người
(theo Status of global Mission in International Bulletin of Missionary Research)
Nếu nhìn vào Châu Á, ta sẽ thấy tình trạng có vẻ gay go hơn nhiều. Theo thống kê của Viện Thống Kê Tòa Thánh thì :
– Dân số Á Châu : 3.500.000.000 người
– Công giáo : 95.000.000 người = 2, 8%
Nếu rút số người công giáo trên quần đảo Philippines là 56.000.000 thì tỷ lệ chỉ còn 1,18%. Có nhiều nước tỷ số người công giáo chưa lên tới 1% dân số.
BẢNG THỐNG KÊ
Nhìn vào thống kê chúng ta thấy công giáo là thiểu số, một thiểu số làm chúng ta phải suy nghĩ và chắc chắn chúng ta cần có một thái độ nào đó trước tình trạng này.
Riêng ở Việt Nam, tới nay chúng ta chưa có một phương pháp rõ rệt để điều tra cho biết chính xác những người còn thành tâm giữ đạo. Nhưng chắc chắn một điều là ngoài những người vô thần công khai, còn có những người vô thần ẩn danh trong số những người tự xưng là có tín ngưỡng. Sau khi thấy tình trạng vô thần qua những con số thống kê, chúng ta thử tìm xem đâu là những nguyên nhân đưa tới tình trạng này.
– Nguyên nhân vô thần :
Khi nói đến nguyên nhân vô thần, người ta thường nghĩ ngay đến các tà thuyết. Nhưng thực ra tà thuyết chỉ hoành hành khi nào người kitô hữu bỏ quên sứ mệnh của mình. Các cuộc điều tra cho thấy rõ rằng về mặt tôn giáo, chẳng phải sự vô tín ngưỡng hay chủ thuyết vô thần chiếm ưu thế ngày nay, nhưng đúng hơn chính là thái độ dửng dưng, hoang mang bối rối, do dự và chờ thời của các tín hữu. Bernanos đã khẳng định : “Tai họa lớn nhất của thế giới không phải vì có những kẻ nghịch đạo, nhưng vì chúng ta là những tín hữu quá tầm thường… Bạn nói thế giới này vô thần, vâng, bởi vì chính bạn đã thiếu nhiệm vụ với thế giới ”. Như vậy tình trạng vô thần có thể đến từ những nguyên nhân sau đây :
– Không được nghe Tin Mừng :
Phần lớn người công giáo không hiểu rõ về Phúc Âm và giáo lý nên không thể nói về Chúa cho bất cứ ai. Một số người thường lấy những tổ chức lễ lạy và tiền dâng cúng để “bù” lại những khiếm khuyết của họ trong việc học đạo và sống đạo. Do đó lỗi thứ nhất của người công giáo là không tìm cách gây thắc mắt trong tâm hồn người khác để ít ra họ có ý muốn tìm hiểu đạo. Tiếp đến, vì không hiểu rõ về đạo nên cũng không dám nói đến đạo hay niềm tin của mình.
– Gương xấu của người công giáo :
Một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến tình trạng vô thần có lẽ là do đời sống bất xứng của người công giáo. Gandhi, vị anh hùng của Ấn Độ đã nói khi nhìn thấy cách sống của người công giáo : “Tôi tin Đức Kitô và Tin Mừng của Người, nhưng tôi không tin những người theo đạo của Người”. Tạp chí Lumière et Vie số 313 in một bài có nhan đề : Những cái bất xứng của người kitô giáo. Tác giả đưa ra nhiều lỗi của người kitô giáo như chia rẽ, trục lợi, đời sống thiếu gương sáng, thiếu chứng từ…
Càng ý thức sâu xa, chúng ta càng thấy rằng Tin Mừng của Đức Kitô phải thấm nhập vào mọi sinh hoạt của đời sống. Tin Mừng không phải là lý thuyết nhưng là cuộc sống. Nếu đời sống của người công giáo không thể làm chứng về Chúa thì ta không thể gây thắc mắc nơi những người ngoài công giáo và cũng không giúp cho thế hệ trẻ đứng vững trong đức tin kitô giáo. Dĩ nhiên cũng có những người thành tâm sống đạo và đem Tin Mừng của Chúa vào môi trường sống, nhưng những người như thế hình như qua ít ỏi, không đủ làm dậy men trong thúng bột.
2. Tự do quá đáng
Ngày nay hình như có một sự nở rộ các phong trào bênh vực nhân quyền và khuynh hướng dân chủ hóa trong mọi lãnh vực. Đây là một điều tốt, nhưng nếu nó vượt quá giới hạn phải có thì tình trạng này sẽ dẫn đến một sự hàm hồ. Thay vì đặt nhân vị con người vào đúng chỗ của nó, óc cá nhân chủ nghĩa và sự tự do quá trớn làm cho con người coi thường mọi kỷ cương, quyền bính và trật tự chung.
3. Sự thăng tiến khoa học kỹ thuật :
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật ngày nay là một thánh đố cho niềm tin kitô giáo. Những phát minh mới lạ đang mở ra một chân trời mới, rộng lớn và khác biệt với cái thế giới cổ truyền. Biết bao người trẻ sinh ra trong xã hội tin học, lớn lên với máy tính… Bên cạnh đó là cuộc sống mất niềm tin, thiếu vắng lý tưởng.
Ngày nay nhiều người thường cho rằng khoa học và đức tin đối lập nhau. Đối với các nhà khoa học, hình như đức tin và khoa học thuộc về hai thế giới khác nhau, mỗi thế giới hướng theo một nguyên tắc riêng biệt. Nhưng suy nghĩ một chút, ta thấy khoa học và đức tin không đối lập nhau nhưng thuộc hai lãnh vực khác nhau. Khoa học có mục đích chứng minh sự thật có sẵn và đức tin chỉ lối để tìm nhận sự thật. Thí dụ khi nói về việc tạo dựng : khoa học nghiên cứu vật chất đã được tạo dựng, trong khi đức tin giải quyết được việc tạo dựng nhờ mạc khải.
Con người ngày nay hướng về thực dụng, chỉ chấp nhận những gì có thể chứng minh hay kiểm nghiệm được, vì thế một số người thường đặt tất cả hy vọng vào khoa học, họ tin tưởng khoa học sẽ giải thoát nhân loại. Nhưng thực ra khoa học dựa vào sự hiểu biết những định luật vật chất chỉ có thể mang đến một lời giải đáp vật chất. Vì vậy nếu tin khoa học là một lời giải đáp thì đó cũng chưa giải đáp được toàn thể con người. Trên những đau khổ về vật chất : bệnh tật, khốn cùng, chiến tranh… con người nhờ có sự hiểu biết về phẩm vị, còn muốn thoát khỏi vòng tối tăm của kiếp người, để đạt tới ánh sáng chân thật là Thiên Chúa.
4. Việc tục hóa và coi trọng vật chất
Kỹ nghệ phát triển làm thay đổi đời sống con người về nhiều mặt, người ta sống vội, yêu cuồng, phó mặc cho sự hấp dẫn của xã hội tiêu thụ. Các giá trị vật chất dần có chỗ đứng quan trọng trong đời sống con người nên các giá trị tinh thần hình như bị hạ giá. Đời sống con người ngày càng bị tục hóa nên có người còn cho rằng các giá trị tinh thần là ảo tưởng của những người không có năng lực hay ngu dốt. Trong một xã hội xuống dốc, đạo đức vắng bóng và khủng hoảng niềm tin đó, dĩ nhiên đồng tiền được lên ngôi. Nguyễn Việt Hà đã khẳng định : “Muốn biết rõ về ai, nên nhúng người ấy nhiều lần vào đồng tiền. Cái thứ dung dịch siêu thặng này làm trôi đi tất cả những màu mè bọc ngoài. Đạo mạo trở nên hau háu lỗ mãng, dịu dàng trở nên chua ngoa cướp giật… Lịch sử nhân loại chứng kiến số người tự tử vì tiền gấp tám lần số người tự tử vì tình, có phải thế mà thời đại chúng ta hết những nhà đạo đức thật”[1].
Thật ra, chúng ta không có lý do nào để lánh xa thế giới vật chất, vì đây chính là món quà Chúa ban để sử dụng và phát triển nhân cách. Chúng ta cần có của cải vật chất để sống, nhưng điều quan trọng chính là thái độ tự do trước của cải, nghĩa là con người dùng của cải nhưng không vương vấn nó, không để cho nó chi phối hoàn toàn cuộc sống của mình.
II. NHỮNG THÁCH ĐỐ RIÊNG CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM
Để thăng tiến nền Huấn giáo của Giáo Hội Việt Nam, nhiều thách đố liên quan đến vấn đề mục vụ được đặt ra. Chúng ta cần phải biết rõ những thách đố đó để có thể khắc phục hoặc để dò tìm một đường lối huấn giáo cụ thể hơn cho các đối tượng mục vụ.
Gần 40 năm sau Vaticanô II, các tín hữu Việt Nam phần lớn chưa làm quen được với các văn kiện của Công đồng. Mặc dù có rất nhiều người thiện chí muốn truyền đạt, nhưng chỉ một số nhỏ có thể tiếp thu được và đa số hình như vẫn còn xa lạ với những ngôn từ trong các chỉ thị của Giáo Hội. Như thế, chắc chắn có những trở ngại trên đường mục vụ mà Giáo Hội Việt Nam phải đối diện :
1. Quan niệm tách biệt giữa xã hội và tôn giáo
Do ảnh hưởng của các tôn giáo truyền thống, người Việt Nam có một cái nhìn tách biệt về thế giới con người. Có hai thế giới : thế giới thánh hiến và thế giới phàm tục, đồng thời cũng có hai loại người : loại người được tách khỏi thế gian (linh mục tu sĩ, tăng ni…) và người thế gian (giáo dân…). Theo cái nhìn này, những người thuộc về thế gian thì không trong sạch và ngược lại những người không thuộc về thế gian thì được coi là trong sạch, thánh thiện.
Thí dụ : người Việt Nam không chấp nhận những người thánh hiến nghĩ đến việc đời, việc gia đình ; phần lớn người công giáo thích rước lễ nơi tay vị linh mục hơn nơi người giáo dân…
Kết quả : Khó thăng tiến vai trò người giáo dân, người giáo dân thụ động không tham gia vào các việc phụng vụ và các sinh hoạt mục vụ…
2. Việc mục vụ thiếu đổi mới
Phần lớn người tín hữu chấp nhận việc được rửa tội, siêng năng đi lễ, chịu khó đọc kinh, rước xách… như là những dấu hiệu tốt của đời sống đạo. Nói chung, không có những thay đổi về cách thức mục vụ. Người tín hữu không được huấn luyện về thần học và sứ vụ truyền giáo nên không có sự hiệp thông và đồng trách nhiệm với giáo hội.
Kết quả : Không có sáng kiến, chấp nhận sự chỉ đạo của cha xứ. Mọi sinh hoạt tôn giáo đóng khung trong xứ đạo của mình, và cho rằng chỉ các linh mục tu sĩ mới cần học hỏi thêm về thần học.
3. Phân biệt giai cấp
Ngoài sự phân biệt giữa tu và tục còn có sự phân biệt tuổi tác. Những người lớn tuổi luôn luôn có quyền và hợp lý. Cả trong các sinh hoạt của Giáo Hội, vấn đề giai cấp vẫn còn rất rõ nét : người lớn tuổi hơn luôn được coi là có kinh nghiệm và đúng, người dưới chấp nhận nghe theo và làm theo những chỉ thị từ trên mà không cần suy nghĩ.
Kết quả : Giáo hội chậm tiến, giới trẻ không muốn cộng tác và đóng góp sáng kiến.
4. Vai trò giáo dân
Chưa quan tâm đến vấn đề thăng tiến vai trò người giáo dân, chưa có chương trình huấn luyện giáo dân về thần học và mục vụ. Người giáo dân chấp nhận làm tay làm chân hơn là làm con tim và khối óc.
Kết quả : Linh mục quá bận rộn, giáo dân dễ thụ động, việc mục vụ thiếu sáng kiến và đổi mới.
5. Phân biệt nam nữ
Mặc dù có giảm bớt trong vài lãnh vực nhưng vấn đề phân biệt nam nữ vẫn còn tồn tại trong đời sống xã hội và tôn giáo tại Việt Nam. Trong tâm thức người Việt Nam nói chung, phần lớn còn đánh giá nam trên nữ dưới nhất là trong phạm vi nghề nghiệp và giai cấp xã hội. Trong gia đình người ta thường giáo dục người nữ tinh thần vâng phục chịu đựng…
Kết quả : không phát huy được hết khả năng của nữ giới.
Kết luận : Nhân loại đang bước vào một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên có nhiều tiến bộ, nhiều hy vọng nhưng cũng đầy dẫy những thách đố và lo âu. Nếu nhìn vào xã hội Việt Nam, chúng ta cũng nhận ra một điểm khá rõ rệt là thanh thiếu niên đã bắt đầu lãnh đạm với đạo. Điều này làm chúng ta phải suy nghĩ về vai trò và sứ mạng của mình. Nói cách khác, ta phải làm gì để thức tỉnh niềm tin nơi các tín hữu, giúp họ ý thức và đảm nhiệm lấy trách nhiệm làm người công giáo trong xã hội của mình.
Dĩ nhiên ơn Chúa và sự sẵn sàng của các tâm hồn vẫn là yếu tố quyết định, nhưng nhìn vào lịch sử của khoa Huấn giáo và qua những chỉ dẫn của Giáo Hội về việc dạy giáo lý, chúng ta thấy vai trò giáo lý viên cũng rất quan trọng : với một đời sống tâm linh vững chắc, một kiến thức thần học đầy đủ, giáo lý viên có thể đóng góp rất nhiều trong việc làm tăng trưởng đức tin trong các tâm hồn.
Thêm vào đó, giáo lý viên cần được huấn luyện thêm về sư phạm và những kỹ năng chuyên môn để có thể canh tân liên tục và quân bình… trong việc truyền đạt nội dung giáo lý.
[1] NGUYỄN VIỆT HÀ, Cơ hội của Chúa, Nxb Văn học, 1999, tr. 436
BÀI 15 PHẦN IV : HUẤN LUYỆN SƯ PHẠM
Mục tiêu của huấn giáo là giáo dục lòng tin sống động vào CHÚA GIÊSU KITÔ vì đối tượng của đức tin chính là Mầu Nhiệm Thiên Chúa và Chúa Kitô. Vậy nhiệm vụ của huấn giáo hay của giáo lý viên là giúp cho người thụ huấn tin tưởng và say mến Chúa Kitô, Đấng đã chết vì yêu con người và được sống lại nhờ quyền năng Thiên Chúa. Chính Đức Kitô là điểm hội tụ duy nhất cho mọi sinh hoạt kitô giáo. Chính Ngài cho biết : Ngài là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, và không có đường nào khác để đến với Chúa Cha. Và cũng chính nơi Ngài, mọi tiên báo và mọi lời hứa được thực hiện. Vậy việc dạy giáo lý chỉ thành công khi làm cho các tâm hồn tiếp xúc với Ngài, quyết định sống cho Ngài.
Nhưng trước hết chúng ta cần xác định : không có một cách thức duy nhất và cố định nào cho việc loan báo Tin Mừng. Đọc Kinh Thánh, đặc biệt là Tân Ước, chúng ta thấy ngay điều đó. Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh và những kiểu cách khác nhau để loan báo Tin Mừng Nước Trời tùy theo đối tượng nghe.
Do đó, khả năng sư phạm là một trong 4 trục cần thiết cho việc dạy giáo lý có hiệu quả. Bất cứ việc huấn luyện nào cũng cần phải có phương pháp, đó là những kỹ năng giúp ta đạt được dễ dàng và nhanh chóng những mục tiêu đã đề ra. Sư phạm vừa là một kỹ thuật vừa là một nghệ thuật. Sư phạm mở ra một con đường tắt làm tăng hiệu quả truyền đạt của người dạy và sự tiếp thu của người nghe. Do đó trong lãnh vực huấn giáo, người ta không ngừng tìm ra những nguyên tắc cụ thể, những phương pháp sinh động để đạt được chủ đích là giúp khơi rộng và đào sâu đức tin, đồng thời giúp người tín hữu càng ngày càng thể hiện trung thực một đời sống mới trong Đức Kitô.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp sư phạm giáo lý, mỗi phương pháp có những đặc điểm và sự thích ứng riêng biệt. Có những phương pháp tùy theo tuổi và trình độ h