Vẫn còn những vướng mắc về tổ chức và hoạt động của mô hình đại học Việt Nam

Bà Nguyễn Thị Mỹ Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa – Giáo dục của Quốc hội cho biết, Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2018 (Luật Giáo dục đại học chủ yếu bao gồm hai phương thức trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam: trường đại học và trường cao đẳng (gọi chung là trường đại học) và trường đại học – cơ sở giáo dục đại học gồm nhiều đơn vị hợp thành hoạt động trong nhiều lĩnh vực chuyên môn, nhất trí thực hiện một mục tiêu, sứ mệnh chung là đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng.

Theo quy định của pháp luật, thuật ngữ “đại học” không chỉ dùng để chỉ các trường đại học, mà còn để chỉ “tổ hợp các trường đại học thành viên và cơ sở nghiên cứu khoa học với các lĩnh vực chuyên môn khác nhau ở hai cấp độ” như được định nghĩa tại Điều 4, Khoản 8, của Luật Đại học. Luật Giáo dục đại học năm 2012 (Luật số 08/2012 / QH13), bao gồm các trường đại học quốc gia và đại học vùng hiện có, cũng đã mở ra hành lang pháp lý cho việc hình thành các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực phát triển từ các trường đại học truyền thống.

Tuy nhiên, trong thực tế triển khai vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập trong tổ chức và hoạt động của mô hình trường đại học, cần phải khẩn trương tháo gỡ. pháp luật.

Về vấn đề này, ông Lê Quân, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, từ năm 2013, Đại học Quốc gia Hà Nội được giao quyền tự chủ, có tinh thần tự chịu trách nhiệm cao về tổ chức và hoạt động, đồng thời thực hiện tốt các quyền này. Thời gian, thời gian được chia thành ba cấp quản lý khác nhau: cấp Đại học Quốc gia Hà Nội; đơn vị thành viên cấp I, đơn vị trực thuộc; khoa, viện nghiên cứu, trung tâm và cơ sở tương đương trực thuộc đơn vị thành viên và đơn vị trực thuộc.

Các đơn vị thành viên trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội tại Việt Nam tổ chức và hoạt động theo cơ chế độc lập, tự chủ, mở, liên thông, liên kết, phát huy lợi thế chuyên môn hóa, tự chủ. Khung quản lý và điều phối thống nhất của Đại học Quốc gia Hà Nội.

Việc quản trị của Đại học Quốc gia Hà Nội theo hướng quản lý đầu ra. Đại học Quốc gia Hà Nội khuyến khích các trường đại học thành viên tham gia kiểm định của các tổ chức kiểm định quốc tế có uy tín nhằm tạo thuận lợi cho quá trình nâng cao chất lượng và hội nhập. Đại học Quốc gia Hà Nội có mô hình đặc thù, tự chủ cao về chuyên môn, nghiên cứu khoa học, tổ chức bộ máy, tài chính và tài sản.

Tuy nhiên, lãnh đạo Đại học Quốc gia Hà Nội cũng nêu một số khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các điều kiện của Đại học Quốc gia Hà Nội tự chủ:

Đó là thực hiện mô hình hội đồng đại học thành viên; thể hiện mức độ tự chủ của các trường đại học thành viên trong bản đồ tự chủ tổng thể của Đại học Quốc gia Hà Nội; tổ chức của Đại học Quốc gia Hà Nội, tổ chức, cơ chế, chính sách điều kiện thành lập của đại học công lập. đơn vị sự nghiệp của đơn vị thành viên và đơn vị trực thuộc Phân loại.

Về cơ chế, chính sách và các quy định khác của pháp luật, Đại học Quốc gia Hà Nội gặp khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các mục tiêu, kế hoạch phát triển ở các giai đoạn của các dự án đầu tư xây dựng.

Cơ chế, chính sách ký kết hợp đồng lao động và bổ nhiệm các chức danh quản lý, lãnh đạo ở một số chuyên ngành còn hạn chế, chưa hoàn thiện, quyền tự chủ về tổ chức, cán bộ của Đại học Quốc gia Hà Nội chưa được thể chế hóa bằng pháp luật. Trước những thực tế trên, Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất và kiến ​​nghị Chính phủ trao quyền tự chủ cao hơn.